Chuyển đến nội dung
Diễn đàn CADViet
Đăng nhập để thực hiện theo  
haanh

HÃY BẢO VỆ THUẦN PHONG MỸ TỤC CỦA NGƯỜI VIỆT

Các bài được khuyến nghị

Bảo vệ Thuần Phong Mỹ Tục

Thứ sáu, 10/04/2009 - 10:49:am
Bảo vệ thuần phong mỹ tục
(Tóm tắt bài giảng của Sư Phụ Thích Chân Quang tại chùa Kim Huê, thị xã Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp ngày 29/03/09).
Đất nuớc ta đang trong thời kỳ mở cửa, hòa nhập với thế giới trong xu thế tòan cầu hóa. Ngòai những yếu tố tích cực mà sự mở cửa này đem lại, sự xâm nhập ồ ạt của lối sống phương tây có nguy cơ làm cho chúng ta có thể đánh mất đi bản sắc văn hóa tốt đẹp vốn có của mình. Chúng ta có thể thành công về mặt kinh tế nhưng nếu cả xã hội chúng ta sống không có đạo đức, tội ác lan tràn thì tương lai của dân tộc sẽ ra sao? Ví dụ về vấn đề ăn mặc, dân tộc ta có truyền thống người phụ nữ phải ăn mặc kín đáo, quan hệ nam nữ trong sáng được xem là đạo đức, nhưng ngày nay do bắt chước nước ngòai, nhiều phụ nữ đã ăn mặc hở hang, khoe da thịt và có tính gợi dục, nhiều biển quảng cáo phô bày cơ thể người nữ quá đáng, những cảnh trai gái ôm nhau, đã đánh vào tâm hồn của lớp trẻ khơi gợi bản năng tình dục, làm cho nhân cách của con người bị xuống cấp phát sinh nhiều hệ lụy và tội ác ngày càng lan tràn. Như vậy ăn mặc hở hang gợi dục cũng là một tội ác, việc chống lại ăn mặc hở hang cũng là một nội dung của bảo vệ Thuần Phong Mỹ Tục.
Những người chạy theo trào lưu của lối sống phương tây thường biện hộ rằng ăn mặc như vậy mới là văn minh, là đổi mới, còn ăn mặc kín đáo là xưa cũ. Ở đây không nên hiểu bảo vệ Thuần Phong Mỹ tục là bảo vệ cái xưa cũ mà chính là bảo vệ cái đúng cái đẹp (chân – thiện – mỹ).
Dân tộc ta có những truyền thống rất đẹp, ví dụ như truyền thống đi chùa lễ Phật vào ngày đầu năm để dâng lên lòng tôn kính Phật, cầu cho quốc thái dân an, sau đó là viếng nghĩa trang các anh hùng liết sỹ để tri ân những người đã bỏ mình vì tổ quốc. Truyền thống thờ cúng ông bà tổ tiên, truyền thống tôn sư trọng đạo vv… Người xưa quan niệm: Quân, Sư, Phụ họ coi người thày (Sư) còn đáng kính hơn cả người cha của mình (Phụ), vì người Thầy không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn dạy cách sống đối nhân xử thế nữa.Truyền thống này ngày nay đã bị mai một nhiều do cả từ hai phía người học và người dạy trong cơ chế thị trường. Người Thầy bây giờ thường chỉ dạy một môn và chỉ gắn bó trong khỏang thời gian ngắn do vậy tình Thầy trò cũng ít hơn xưa, chưa kể là đó đây có tiêu cực cũng làm suy giảm hình ảnh cao đẹp của người Thầy trước xã hội. Người học do nghĩ rằng mình đã đóng học phí và học với nhiều thày khác nhau nên mối quan hệ Thầy trò cũng trở nên lợt lạt hơn.
Chúng ta thấy dân tộc ta có một số Thuần Phong Mỹ Tục cần được bảo vệ và phát huy là:
1. Tôn trọng người lớn tuổi, việc phân biệt ngôi thứ trong cách xưng hô rất đặc biệt của người Việt: cụ, ông bà, cha, mẹ, cô bác, vv… tuy phức tạp nhưng thể hiện sự tôn trong rất rõ ràng, khác hẳn với lối xưng hô đánh đồng: I, You có thể hiểu là mày, tao, nị, mọa vv..Quan niệm “kính lão đắc thọ” là một nét đẹp trong tâm hồn Việt, điều đó cũng dẫn đến một kết qủa là ta có thể học được nhiều kinh nghiệm hay quý từ người cao tuổi. Cũng với thái độ sống này giúp cho người trẻ có bản ngã nhỏ lại, mà theo như luật nhân qủa bản ngã của ta nhỏ lại vô số điều tốt đẹp sẽ mở ra.
2. Người đi trước nâng đỡ người đi sau, với quan niệm: “Con hơn cha là nhà có phúc”. “Người đi trước rước người đi sau”. Nếu mà truyền thống này được huy, người giỏi sẵng sàng chỉ bảo người dở kém, nhân viên cũ sàng truyền kinh nghiệm cho người mới, thủ trưởng biết nâng đỡ chỉ bảo cho nhân viên thì xã hôi ta sẽ tiến bộ rất nhanh.
3. Lễ phép với người lớn tuổi và những người đáng kính. Những tiếng dạ, thưa, kính thưa, thưa vâng ạ, khi đưa hay nhận vật gì của người lớn đều kính cẩn với 2 tay, cúi đầu khi đi qua trước mặt người lớn là những biểu hiện đẹp về sự lễ phép.
4. Hiếu khách, ngay từ thời xa xưa mặc dù có thể nhà nghèo nhưng mỗi khi có khách đến nhà chủ nhà điều đón khách với thái độ trân trọng quý mến dành những điều kiện tốt nhất thiết đãi những món ăn ngon nhất mà gia đình mình có. Ngày nay mở cửa giao lưu với quốc tế khách nước ngòai đến thăm và làm ăn ngày càng nhiều, thái độ tôn trọng hiếu khách càng làm cho bạn bè kính trọng yêu mến Việt Nam hơn.
5. Cẩn thận trong lời nói. “Ăn có nhai nói có nghĩ”, “uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”, “lời chào cao hơn mâm cỗ” thể hiện sự cẩn thận của cha ông ta trong lời ăn tiếng nói. Lời nói hay, lời nói đẹp mang lại sự hài lòng lợi ích cho người nghe là thể hiện đạo đức làm người. Những tiếng nói thề chửi tục bị ông bà ta xếp vào lọai hạ đẳng, lưu manh du đãng vì vậy là người đàng hòang xin đừng nói tục chửi bậy để không bị liệt vào hàng ngũ những người đẳng cấp thấp.
6. Ăn mặc kín đáo đoan trang của người phụ nữ và quan hệ nam nữ có tôn ty trật tự, trong sáng được đề cao. Những biểu hiện ngược lại sẽ bị lên án quở trách.
Tuy nhiên hiện nay cũng đang tồn tại những tệ nạn phá họai Thuần Phong Mỹ Tục của chúng ta là:
1. Tệ nạn cờ bạc. những hình thức đánh cờ đánh bài, chơi hụi, số đề. Tệ nạn này phát sinh từ tâm lý của một số người không muốn bỏ công sức mà muốn có nhiều bằng sự chiếm đọat của người khác. Tê nạn này gây ra bao thảm cảnh mất nhà cửa, đổ vỡ hạnh phúc cho bao nhiêu gia đình, làm xã hội rối lọan, ở đâu có tồn tại tệ nạn này thì xã hội đen sẽ phát triển.
2. Nhậu nhẹt. Bây giờ người ta xem chuyện ăn nhậu như một việc bắt buộc phải có trong các quan hệ làm ăn. Đi đâu chúng ta cũng thấy các quán nhậu, người ta xem ăn nhậu như một thú vui, nhưng đó là một thú vui hưởng thụ rất ích kỷ. Có nhiều người ham ăn nhậu trở nên bê tha quên hết cả vợ con, say xỉn hành hạ vợ con xảy ra bao nhiêu bi kịch gia đình chỉ vì ăn nhậu.
3. Khiêu vũ. Điều này được du nhập từ phương tây, nó được nhiều người xem là thời thượng hiện nay đã có nhiều vũ trường mọc lên, là nơi tiêu khiển của giới thượng lưu. Điều này trái ngược với truyền thống người Việt nó gây ra sự xúc chạm cơ thể gây ra kích dục. nhiều thanh niên chôn vùi cuộc đời ở đây cùng với ma túy thuốc lắc. Trong bài giảng Sư Phụ có kể rằng trong một bữa tiệc khi nhiều người Việt hăng hái nhảy thì có một số người nước ngòai có vẻ thờ ơ, khi được mời họ nói rằng họ không biết nhảy vì họ đã bỏ từ lâu rồi. Đến khi họ hỏi ngược lại những người Việt này là các anh có biết ngồi thiền không thì mấy người này trả lời là không biết. Thế đấy, đã có nhiều người phương tây tìm đến để học hỏi về các giá trị văn hóa phương đông như ngồi thiền, thì bản thân nhiều người Việt không biết, không quí trong truyền thống của chính mình mà chạy theo để học hỏi cái mà nhiều người phương tây đã vứt bỏ.
4. Game điện tử (Game online), đây là trò chơi đầy rẫy bạo lực tình ái thu hút giới trẻ đến mức nhiều cô cậu trở nên nghiên ngập, đánh mất cuộc đời thật của mình trong thế giới ảo. Đã có nhiều học sinh từ chỗ học giỏi phải bỏ học và có những vụ án mạng xảy ra vì game online. Vì vậy tuổi trẻ hãy nói không với nó.
5. Các môn thể thao, nhất là bóng đá được rất nhiều người hâm mộ và được coi là môn thể thao vua. Tuy nhiên sự hơn thua qúa đáng dẫn đến xô sát ẩu đả ở sân vận động, các cuộc đua xe sau mỗi trận thắng, rồi các vụ cá độ đến mức nhiều người phải nhảy lầu tự tử đã làm cho xã hội bất an vì vậy cần đặt bóng đá nói riêng và thể thao nói chung trong tinh thần thượng võ mới giữ cho thể thao thực sự trong sáng. Muốn vậy phải giáo dục cho các cầu thủ vận động viên đạo đức để họ có được phong cách thi đấu trong sáng thể hiện được cái chân – thiện mỹ trong thể thao.
Thuần Phong Mỹ Tục là những nét đẹp trong truyền thống văn hóa của dân tộc ta, nó cần được nâng niu bảo vệ giữ gìn. Bảo vệ Thuần Phong Mỹ Tục là bảo vệ tương lai cho dân tộc ta và tương lai của thế giới. Nó là nhiệm vụ của tất cả mọi người nhưng trước hết những người theo đạo Phật phải đi tiên phong. Mỗi Phật Tử phải là một chiến sỹ tiên phong bảo vê Thuần Phong Mỹ Tục, lấy chùa là trung tâm các họat động Phật sự ở đây như tu tâp, làm từ thiện đều phải gắn với nội dung bảo vệ Thuần Phong Mỹ Tục. Mỗi ngôi chùa hãy là một pháo đài bảo vê Thuần Phong Mỹ Tục. Đạo tràng là nơi tu tập đạo đức góp phần bảo vệ Thuần Phong Mỹ Tục, ban điều hành đạo tràng bàn với các huynh đệ trong đạo tràng đưa ra chương trình hành động để bảo vệ Thuần Phong Mỹ Tục. Vận động các cán bộ nhà nước tham gia, chúng ta là những người thông qua lá phiếu của mình để bầu ra các đại biểu HĐND hay đại biểu quốc hội vì vậy ta có quyền và trách nhiệm phản ánh ý kiến của mình về bảo vệ Thuần Phong Mỹ Tục. Thí dụ khi ta bắt gặp các bảng quảng cáo, các trang web không lành mạnh ta phải chụp hình gửi thư lên đến các cơ quan chức năng của nhà nước yêu cầu phải có biện pháp đóng những trang web xấu, nhắc nhở phạt hoặc đóng cửa đối với các cơ sở kinh doanh quảng cáo vi phạm TPMT. Người lớn tuổi hãy khuyên bảo quở trách khi thấy các cháu thiếu nữ ăn mặc hở hang…
Quả báo đối với người có công bảo vệ thuần phong mỹ tục:
1. Đời đời tâm hồn ta không bị hư hỏng, khi ta sinh vào đâu, xung quanh ta sẽ có nhiều người tốt, gặp được Thầy hiền bạn tốt để giúp cho ta tu tập. Nếu chúng ta không biết bảo vệ chúng ta sẽ bị sinh vào nơi bùn lầy tăm tối, con cháu ta sẽ bị ảnh hưởng rất nặng nề. Có nhiều người chỉ lo cầu Phật để được vãng sanh mà làm ngơ khi thấy những cái xấu ác phá họai Thuần Phong Mỹ Tục thì không thể được vãng sanh. Nhân qủa là công bằng, chỉ có ai bỏ rất nhiều công sức làm đẹp cho cuộc đời này, bảo vệ tốt Thuần Phong Mỹ Tục thì mới được vãng sanh.
2. Con cháu ta được lớn lên trong môi trường tốt lành. Các quý Thầy không khuyên các Phật Tử bảo vê Thuần Phong Mỹ Tục thì sẽ không còn lớp người có lý tưởng tu hành.
3. Được dung mạo đoan chính, đẹp đẽ, vì nét đẹp của con người là do tâm hồn đi ra.
4. Tâm ta dễ nhiếp vào thiền định. Theo Đức Phật “Không có hạnh phúc nào bằng sự yên tĩnh của tâm hồn, đó là hạnh phúc tối thượng”. Sự an định trong thiền định, bản ngã thấp xuống, từ bi sẽ trùm phủ muôn lòai.
Với lòng Từ Bi Sư Phụ nhắc nhở các bậc làm cha mẹ ông bà và xã hội hãy dành cho tuổi teen sự quan tâm đặc biệt. Đây là tuổi dậy thì, tuổi mới lớn, bản năng đang trỗi dậy, tâm lý bồng bột dễ bị kích động. Các em dễ nghe lời bạn bè hơn lời cha mẹ gia đình mình. Bản năng tình dục, nội tiết tố phát triển nên rất dễ sa ngã do ảnh hưởng xấu của bạn bè internet. Tuổi teen cũng dễ hòa theo bạn bè để nổi lọan, nói dối hưởng thụ đua đòi…
Muốn bảo vệ tuổi teen vượt qua những chướng ngại đó để nên người hơn thì bổn phận của gia đình, xã hội phải trang bị cho các em những kiến thức đúng đắn, hướng các em về với những sinh hoạt lành mạnh, có đạo lý, biết tu dưỡng đạo đức, biết tỉnh tâm, thích làm việc từ thiện,…Tự dưng các em sẽ có được sức đề kháng trong tâm để chống lại với những cám dỗ bên ngoài và sống có ý thức hơn.
Đây cũng là lứa tuổi dễ tiếp thu những điều tốt, trong lịch sử đã có rất nhiều anh hùng khi đang còn ở tuổi thiếu nhi. Nếu được trao cho một lý tưởng sống tốt đẹp thì đây là một lực lượng kế thừa xứng đáng của dân tộc của Phật Pháp. Ở các đạo tràng nên lập ra các ban thanh thiếu niên để cho các em tham gia sinh họat tu tập. Trước hết là dạy các em về kỹ năng sống, biết sử dụng các thiết bị dụng cụ trong sinh họat gia đình, biết sử dụng điện tiết kiệm an tòan, học về tham gia giao thông an tòan, biết sơ cấp cứu vv..
Nói tóm lại bảo vệ Thuần Phong Mỹ Tục là nhiệm vụ của mỗi công dân, đặc biệt là mỗi Phật Tử phải là một chiến sỹ trên mặt trận này. Bảo vệ Thuần Phong Mỹ Tục không phải là bảo vệ cái xưa cũ mà là bảo vệ tương lai của dân tộc của nhân lọai. Cảm hứng từ bài giảng của Sư Phụ Thiện Tâm xin có mấy vần thơ hưởng ứng:
Thuần Phong Mỹ Tục bao đời
Dựng nên bản sắc sáng ngời Việt Nam
Yêu lao động chẳng gian tham
Kính già yêu trẻ, nêu gương hiền tài
Nói lời chẳng thích đơm sai
Thủy chung sau trước chẳng phai nghĩa tình
Cây đa bến nước sân đình
Xa rồi vẫn nhớ quê mình chẳng quên
Áo dài tha thướt làm duyên
Nghiêng nghiêng nón lá cô tiên xứ mình!
Ai cũng đẹp, ai cũng xinh
Nụ cười càng thắm nghĩa tình bao la
Ngẩn ngơ lòng khách phương xa
Nghe câu quan họ thiết tha đừng về!
Chiều chiều ra đứng ven đê
Nghe chuông chùa đổ miền quê thanh bình
Đậm đà cuộc sống tâm linh
Chắp cho hồn Việt của mình bay cao
Ai ơi xương trắng máu đào
Cha ông xây đắp ngày nào chẳng quên
Nguyện lòng xin sẽ đáp đền
Non sông này mãi vững bền đắp xây
Chẳng cần muợn, chẳng cần vay
Văn minh xa lạ của Tây của Tàu
Giữ gìn mãi mãi về sau
Thuần Phong Mỹ Tục bền lâu muôn đời!
 Thiện Tâm

 

Nguồn: http://yume.vn/daotrangphatthinh/article/bao-ve-thuan-phong-my-tuc-35AE720C.htm

 

  • Vote tăng 8

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

Mình cảm thấy chưa đồng tình. Giả sử haanh nói vấn đề nào khác, mình còn ủng hộ. Chứ vấn đề này khó nói lắm. Đem thuyết nhà phật ra đây là không phù hợp. Đời sống được bao lâu, chẳng phải haanh vẫn đang bương chải kiếm tiền đó sao?!?

Những gì nêu trong topic này khiến Tú đây có phần bức xúc. Mong haanh hiểu

  • Vote tăng 1

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác
Mình cảm thấy chưa đồng tình. Giả sử haanh nói vấn đề nào khác, mình còn ủng hộ. Chứ vấn đề này khó nói lắm. Đem thuyết nhà phật ra đây là không phù hợp. Đời sống được bao lâu, chẳng phải haanh vẫn đang bương chải kiếm tiền đó sao?!?

Những gì nêu trong topic này khiến Tú đây có phần bức xúc. Mong haanh hiểu

“Tình thương là tài sản vô giá”

Trong công việc và cuộc sống hàng ngày hẳn là chẳng mấy ai cảm thấy hài lòng hay cảm thấy tâm mình được luôn bình an.

Cũng từ những băn khoăn mà HABT đã gặp phải, mình đã đọc bài viết này trên trang web của Đạo sư Duy Tuệ.

Xin được trích ra chia sẻ bài : “Tình thương là tài sản vô giá” – tác giả : Đạo sư Duy Tuệ - Chủ tịch Hội đồng sáng lập TT UNESCO Nghiên cứu ứng dụng Phật Học Việt Nam.

Kính mong mọi người có thêm cách nhìn để cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn và bình yên hơn.

 

________________________________________

 

Ngay từ đầu bài viết, Đạo sư đã đề cập ngay vào vấn đề của mỗi người chúng ta :

Mình đã hiểu mình chưa ?

Chúng ta thử ngồi tĩnh tâm suy nghĩ xem liệu có ai dám đoán chắc là đã hiểu được mình chưa? Hay bất quá chỉ có thể tổng kết mình đã làm bao nhiêu việc thiện, đã phạm phải bao nhiêu tội lỗi trong đời mà thôi? Những chuyện nổi lên bề mặt cuộc sống rõ nét thì có thể hiểu được chút đỉnh, còn những điều lắng sâu bên trong, chẳng hạn như tại sao mình có những nỗi buồn man mác, tại sao mình lại phạm điều xấu, tại sao mình làm việc tốt, tại sao mình không được giàu có, tại sao không được sung sướng như người khác? Trời xui đất khiến sao để mình làm vợ ông này mà không ưng ông kia, tại sao mình cưới cô này mà không lấy cô nọ? Ngay những chuyện do mình chủ động làm mà mình còn không hiểu nổi kia mà!

 

Có biết bao nhiêu vấn đề chúng ta từng đặt ra và trăn trở nghiền ngẫm mãi vẫn không có câu giải đáp thỏa đáng. Mặc dầu mắt vẫn mở, đầu óc vẫn làm việc, tay chân vẫn cử động, cơm nước vẫn ăn hàng ngày, nhưng để hiểu rõ bí mật về mình quả thật khó lắm thay!

 

Đúng là cứ theo cách nhìn từ khi sinh ra, lớn lên đến giờ mình không thể hiểu được mình !

Hiểu người khác, hiểu những hiện tượng trong thiên nhiên trời đất diễn ra chung quanh mình thì sao ?

Hiểu mình đã khó thì hiểu người khác lại càng khó hơn. Hiểu những người thân không dễ nên đối với người ngoài khó gấp bội phần. Rồi những hiện tượng khác trong thiên nhiên, trong trời đất diễn ra chung quanh, mình lại càng mù tịt.

Rõ ràng chúng ta có mắt mà cũng như mù, tuy chẳng phải hoàn toàn không nhìn thấy đường đi nhưng quả tình chỉ nhìn thấy chập choạng mọi thứ mà thôi.Thế thì trong tình trạng đó làm sao chúng ta có thể nhìn ra con đường chính xác trong cuộc đời vốn có muôn ngàn nẻo đi này? Làm cách nào chúng ta biết được cách cư xử cho phải lẽ với chính mình, với vợ, với chồng, với người trên kẻ dưới? Quả thật là khó lắm và đừng ai chủ quan cho rằng mình đã hành xử đúng trong mọi việc. Đó chỉ là những đánh giá hoàn toàn phiến diện mà thôi.

Và từ đó, Đạo sư viết :

Nếu hết thảy chúng ta đều sáng suốt, xử sự đúng mực trong tất cả các mối quan hệ cũng như trong tất cả mọi vấn đề thì con người đã ít chịu khổ đau và thế giới đã bớt đau thương. Còn nếu chúng ta chưa cư xử sáng suốt trong tất cả các mối quan hệ thì điều đó chứng tỏ đầu óc và tâm hồn chúng ta còn tăm tối.

Đạo sư nói rõ :

Một khi đã hiểu rõ chính mình thì tâm rất sáng, chừng đó mới mong hiểu được những người chung quanh.

Vậy thì làm thế nào để hiểu rõ chính mình đây ? Nói chính xác hơn là hiểu được cái tâm của mình đây ?

Đạo sư nói:

“Tâm mình là một cõi giới có thể chứa được tất cả những lời khen tiếng chê mà không bao giờ bị dao động”

Có thể hình dung như thế này: chúng ta cưới vợ cho con trai nhưng rồi mẹ chồng nàng dâu sống chung không hoà thuận và đâm ra xích mích tối ngày. Cái tâm của mẹ chồng chứa không nổi con dâu và ngược lại tâm cô dâu cũng không chứa nổi mẹ chồng cho nên mới xào xáo. Nếu tâm mẹ chồng rộng lượng thì không chỉ một cô dâu mà mười cô cũng chứa được, cái tâm chúng ta lớn mới dung nạp được nhiều, cái tâm nhỏ thì chúng ta không chứa nổi điều gì.

…Cái tâm bình yên vốn đã là nguyên bản bên trong chúng ta, nhưng do lòng tham, ham danh ham lợi, ham tình ham tiền, do buồn, do giận, do đủ thứ hỉ nộ ái ố ngự trị trong tâm hồn cho nên cái tâm bị xáo động.

Vậy thì tâm mình lớn bao nhiêu ?

Trong túi có mười đồng, khi tới chùa mình tính tới tính lui rồi lấy một đồng bạc, chần chừ rút vô rút ra một hồi mới quyết định đem cúng dường Tam bảo. Thế thì cái tâm mình khi đứng trước Tam bảo lớn bằng một đồng, thậm chí chưa tới một đồng vì rút tiền ra mà tiếc đứt ruột. Nếu tâm ta lớn hơn một đồng thì sẽ cầm tiền đem cúng Phật không cần nghĩ ngợi gì hết, tâm bằng một đồng thì nhìn tới nhìn lui, nhỏ hơn một đồng thì rút vô rút ra, cân nhắc hồi lâu mới đem cúng.

Tâm ta vô hình thì nhận ra thế nào ?

…. Tâm ta vô hình nhưng lại dễ nhận ra, ai nói điều gì không vừa ý là nổi giận chửi liền, tức là tâm mình không đủ sức chứa lời nói của người ta, nhất là lời nói không hay. Còn nếu tâm mình rộng rãi thì đừng nói người ta nói xấu một chứ dù có gấp mười lần như thế mình cũng vẫn thản nhiên.

Nếu tâm ta đủ sức chứa tất cả những lời thị phi của thiên hạ thì sẽ như mặt đất, dù ai có đổ vàng ròng xuống mặt đất cũng chẳng vui mừng mà ngược lại có đổ đầy phân heo xuống nó cũng chẳng nhăn nhó mà hoàn toàn bình thản.

….Nhìn vào bên trong và làm cho con mắt bên trong mở ra khiến tâm sáng lên, ta sẽ dễ dàng hiểu mình cũng như hiểu người hơn. Do đó muốn suy nghĩ điều gì thì ta nên khép mắt lại một chút sẽ thấy dễ dàng hơn, còn như đang lái xe mà nghĩ ngợi lung tung thì coi chừng xảy ra tai nạn. Hễ muốn suy tính là phải dừng tất cả mọi hoạt động và kiếm chỗ vắng vẻ để ngồi suy nghĩ. Nghĩ ngợi hồi lâu mà vẫn không có kết quả thì tạm thời gạt bỏ qua một bên, còn nghĩ ra rồi cũng nên dừng lại đừng tính toán thêm nữa mà nên đi làm việc khác.

Khi tâm chúng ta bình yên thì hãy suy nghĩ còn nếu không đừng nên nghĩ ngợi làm gì vì sẽ không có hiệu quả. Vọng tưởng điên đảo chính là suy nghĩ của mình, cứ tính tới tính lui hoài thật nguy hiểm. Khi nào tâm bình yên suy nghĩ mới được chính xác hơn.

Đạo sư cụ thể thêm :

..Nhớ tìm chỗ bình yên để ngồi rồi khép mắt lại và tập trung nhìn vào bên trong mình. Thực hiện đúng như thế tâm ta sẽ sáng lên, trí mở ra và khám phá được nhiều điều. Khi đó quý vị sẽ thấy mọi sự đau khổ mà quý vị đã và đang trải qua là do lỗi của mình. Đồng thời cũng nhận thấy rõ bản chất của khổ đau và chúng sẽ tan biến.

Đang đi trên đường mà bỗng nhiên có kẻ say rượu sấn tới tát tai mình thì đừng đổ lỗi cho tên bợm nhậu ấy mà nên trách ta không cảnh giác. Đáng lẽ thấy hắn ta đang trong tình trạng không tự kiểm soát được, người khôn ngoan phải tránh xa ngay. Còn nếu cứ tự tin xăm xăm đi tới thì phải lãnh hậu quả mà thôi, đó là do mình không đề phòng rủi ro và thiếu cảnh giác.

Trong gia đình cũng vậy, người vợ, người chồng hay con cái gây phiền não cho mình thì trước hết phải tự trách bản thân, vì mình chưa đủ khôn khéo và tinh tế trong cư xử nên mới xảy ra chuyện đáng tiếc. Giờ đây mình phải vận dụng sự thông minh và khôn khéo để giải quyết những hậu quả đó chứ đừng chờ đợi Phật Trời xuống giúp đỡ. Nhưng nếu do buồn phiền nóng giận quá mà tâm trí không còn đủ bình tĩnh thì nên về chùa lạy Phật để trí óc được minh mẫn mà tìm phương giải quyết.

Vì thế không phải đi chùa là mê tín dị đoan hay cầu xin Đức Phật ra tay cứu độ cho mình. Tới chùa là vì tâm bình yên của ta bị kẹt không xuất hiện được nên tâm chưa sáng, vì vậy mình đốt nhang thành kính lạy Phật rồi ngồi nhắm mắt lim dim, tự nhiên tâm bình yên sẽ bộc lộ, chừng đó mình có đủ sức mạnh nội tâm, bản lĩnh và sáng suốt để giải quyết mọi chuyện. Còn nếu không có điều kiện đến chùa thì tìm cảnh thiên nhiên vắng lặng để thư giãn cũng có kết quả tốt.

Khi mắc nợ cũng vậy, đừng dại dột đi trốn nợ mà nên thẳng thắn đến gặp mặt chủ nợ để đàm phán tự nhiên mọi việc sẽ êm đẹp. Hễ mình càng trốn tránh lại càng lâm vào ngõ bí. Trên cõi đời này biết bao nhiêu người mang nợ, ngay như nước Mỹ vốn giàu nhất thế giới nhưng đồng thời cũng là nước mang nợ nhiều nhất. Tuy nhiên người ta đủ khôn ngoan, tỉnh táo để giải quyết đâu ra đó đàng hoàng. Năm nay trả không được thì để sang năm, năm tới còn nợ xin khất thêm năm nữa. Điều quan trọng là ta phải thành tâm và sáng suốt bởi khi sáng suốt mới có được bản lĩnh.

Mở rộng tâm như thế nào ?

Chúng ta phải tập mở tâm ra thật rộng để có thể thu nhận hết tất cả. Người ta nói tốt mình cũng chứa mà nói xấu cũng chứa, nhưng điều quan trọng là chấp nhận một cách vô tư thanh thản chứ không phải cố ý ghim giữ, vì như thế lại càng nguy hiểm hơn. Ta chứa đựng tất cả giống như cách mà mặt đất tiếp nhận mọi vật, không trọng tốt khinh xấu.

Đạo sư lưu ý thêm :

Nếu ai đó nói rằng hiện giờ tôi đã buông xả hết mọi thứ thì chúng ta hãy hỏi trước đây họ đã tham lam chuyện gì, bị ràng buộc bởi điều gì? Nếu họ trả lời rằng từ nhỏ đến lớn không hề tham lam gì cả, không để điều chi ràng buộc cả thì rõ ràng chuyện buông xả là không thật rồi. Hễ nói tới buông xả tức là mình đang tham lam hoặc đã tham lam nên giờ đây mới buông xả và như thế thì việc buông xả mới giá trị.

Vậy bản chất của Tâm là gì ?

Bản chất tối quan trọng trong tâm của chúng ta là khả năng nhận biết. Chúng ta sử dụng khả năng ấy để nhận biết về những điều nói trên. Rồi từ trong cõi nhận biết nơi tâm mình tự nhiên sẽ xuất hiện nhiều vị thầy khác nhau dạy cho chúng ta cách hiểu biết nhận diện khác nhau. Người thầy bên ngoài chỉ làm nhiệm vụ trung gian, giới thiệu những nét đại cương, còn quý vị phải ráng khai thác ông thầy trong tâm mình mới chính xác.

Khi thực hành được rồi quý vị sẽ trở thành những người giàu sang chứ không còn gặp khó khăn nữa. Đôi khi trong gia đình người vợ hay người chồng làm ta bực mình nhưng hãy cố gắng mở rộng tâm, tuy việc họ làm khiến mình không hài lòng, không ưng ý, nhưng cứ ráng mở rộng tâm mà chứa. Từ đó chúng ta sẽ có được trí tuệ để xử lý những tình huống cụ thể một cách sáng suốt nhất.

Cho nên chúng ta phải tin vào khả năng hiểu biết vô tận của tâm mình và tin vào tình thương của mình đối với tất cả mọi người. Phải sống bằng đức tin ấy chứ đừng quá bám vào tri thức mà mình thu nhặt được, kể cả kiến thức về kinh sách tôn giáo.

Trong Tâm có chứa gì ?

Đạo sư nói rõ :

Ai cũng có sẵn tình thương trong lòng. Không phải ngồi thiền để có tình thương hay niệm Phật mới có tình thương mà nó đã có sẵn rồi.

Điều dễ thấy nhất là khi còn nhỏ chúng ta thương cha thương mẹ, thương anh thương chị, lớn hơn một chút thương bạn thương bè, lúc trưởng thành thương yêu người tình. Khi lập gia đình, sinh con đẻ cái thì thương con, sống trong đất nước mình thương Tổ quốc, sống trong cộng đồng ta thương mọi người chung quanh.… Như thế có đúng là tình thương đã có sẵn rồi không?

Trong Tâm mình có sẵn tình thương, vậy nó như nào ?

…liệu có ai biết được tình thương ấy lớn nhỏ ra sao? Nặng bao nhiêu? Có màu gì? Mùi hương thế nào? Không ai biết được cả, nhưng điều ta biết chắc là chúng ta có khả năng thương yêu hết cả nhân loại chứ không chỉ một người. Mình có thể thương toàn thể hơn sáu tỷ người trên trái đất, thương hàng tỷ tỷ cây cối trên hành tinh cùng tất cả các loài động vật và thậm chí có thể mở rộng tình thương đến sự sống của vô lượng tinh cầu trong bầu trời. Như vậy khả năng của tình thương là không có giới hạn về không gian lẫn thời gian và không thể nghĩ bàn. Chẳng hiểu nó bao lớn nhưng biết nó bao trùm khắp cõi, không biết nó dơ hay sạch, đúng hay sai mà chỉ cần biết rằng đó là một tình cảm tự nhiên có sẵn trong ta.

Đạo sư chỉ rõ hơn :

Trọng lượng thân thể của chúng ta chỉ giới hạn trong vòng mấy chục ký lô mà khả năng thương của chúng ta bao trùm không chỉ sáu tỷ con người trên trái đất mà có thể thương tất cả các loài chúng sanh. Vậy thì tình thương đó rất cụ thể và có thật. Dù không biết chữ, dù màu da khác nhau, nhưng ai ai trên thế gian cũng đều biết rằng mình có tình thương trong tâm cùng khả năng to lớn của chúng. Cho dù dốt đến cỡ nào thì mình cũng biết được điều ấy.

Đạo sư lưu ý :

Và xin quý vị đừng quên tình thương đó là tài sản vô giá của mỗi người chúng ta. Ta không có tiền nhưng ta có tình thương, rồi đây ta sẽ có tiền. Ta không có nhà nhưng nếu được nhiều người thương thì sẽ có nhà. Nếu không có sức khỏe nhưng ta thương nhiều người và nhiều người thương thì sẽ có sức khỏe. Tình thương lớn tới đâu sự nghiệp lớn tới đó.

Một khi đã ý thức được điều này chúng ta có thể đem tài sản ấy ra mà sử dụng. Thay vì phải đầu tắt mặt tối kiếm tiền, thay vì đi chạy vạy mượn tiền, chúng ta hãy thử tập thương mọi người. Không có việc làm mà chỉ có tình thương với mọi người tự nhiên sẽ có người mang việc làm tới cho ta. Mình dốt nát không biết làm gì mà chỉ có tình thương với mọi người tự động người ta sẽ dạy dỗ mình.

Đạo sư liên tưởng đến hình ảnh chiếu sáng của Mặt Trời :

Xin quý vị hãy cố gắng sử dụng tình thương ấy. Cũng có thể mình thương người khác nhưng họ không thương mình, đó là chuyện của họ. Mặt trời chiếu ánh sáng làm cho cây nở hoa, còn cái cây tiếp nhận ánh sáng mặt trời một cách vô tư lạnh lùng tựa như không hề ý thức được điều ấy. Nhưng mặt trời không bao giờ kể công rằng nhờ ánh sáng mà cây mới sống được, cũng không trách móc tại sao cây lại không thương mình. Nếu sống theo cách đó thì chỉ ít bữa là mặt trời phải vỡ tung thôi.

Và chúng ta thì phải làm sao ?

Chúng ta cũng cố gắng tập sống như vậy, đừng đòi hỏi người này người kia phải đáp ứng cho ta chuyện này chuyện nọ. Điều ấy chỉ mang lại buồn phiền mà thôi. Hãy tập sống như mặt trời tỏa ánh sáng xuống cho muôn loài mà không đòi hỏi con người cùng với tất cả cây cối phải đền đáp điều gì.

Để thu phục nhân tâm, có thể mình không đủ tiền bạc để mua chuộc, không đủ sức mạnh để khuất phục, không có uy quyền để sai khiến mọi người, mà cho dù có đủ điều kiện sử dụng tất cả mọi quyền năng ấy thì kết quả cũng sẽ không tốt đẹp bằng, không mang lại nhiều lợi lộc bằng chỉ dùng tình thương trong sáng.

Vậy thì tình thương chính là một tài sản vô giá. Chúng ta sử dụng nó như nào ?

Khi đã thừa nhận điều này là đúng thì chúng ta phải tìm cách sử dụng nó. Thương không được cũng phải ráng thương, cho dù người ta không tốt với mình vô lượng kiếp cũng mặc kệ. Chúng ta chỉ làm mỗi một việc là cho đi mà không đòi hỏi phải thu về. Đừng bao giờ đem ra mà đổi chác, đừng buộc người khác phải biết rằng mình thương họ, làm như vậy là đương nhiên rước phiền não vào người. Điều trớ trêu là phần đông mọi người đều muốn phô trương tình thương của mình cho người khác biết. Đó không phải là tình thương tự nhiên của chư Phật. Việc quý vị thương yêu con người và tất cả mọi loài chỉ nên để cho Phật biết mà thôi.

Chúng ta không nên sử dụng tình thương kèm theo chữ “muốn”

Trong tâm của chúng ta có nhiều trạng thái trong đó có một trạng thái thương trong suốt được gọi là tình thương của Phật, giống y như mặt trời chiếu ánh sáng ra cho muôn loài. Ngoài ra tâm ta lại chứa đựng một tình thương khác luôn kèm theo một số điều kiện trong đó có chữ “muốn”: “Tôi muốn anh phải như thế này” hay “Tôi muốn em phải làm điều kia”. Trong khi đó tình thương của Phật không bao giờ kèm theo chữ “muốn” ấy. Nếu chúng ta sử dụng loại tình thương có kèm theo chữ “muốn” thì chắc chắn sẽ đau khổ, sẽ phiền não.

Đạo sư nhắc nhở :

Mình thương ai mà họ không đoái hoài đến khiến mình đem lòng hận đến độ muốn giết họ, muốn dùng mọi quyền lực để chiếm đoạt, đó chính là vì mình đã sử dụng loại tình thương có kèm chữ “muốn”. Thế thì chúng ta phải thay đổi, dùng loại tình thương mà không “muốn” gì hết. Tôi thương anh còn anh có thương tôi hay không tôi chẳng quan tâm, tôi chỉ biết phần mình mà thôi.

Chúng ta đừng lẫm lẫn cho rằng tình thương này không mang lại kết quả, ngược lại nó mầu nhiệm gấp nhiều lần loại tình thương kia. Chính vì mình đòi hỏi mà sinh ra rắc rối. Còn nếu mình sử dụng tình thương của Phật thì sẽ cải hóa được cảnh giới chung quanh khiến cho mọi việc trở nên tốt hơn. Mình sống hạnh phúc hơn. Hạnh phúc trong yên lặng, hạnh phúc nói không được. Nói không được là vì nó chân thật, có thật.

Khi tiếp xúc với bạn bè đồng nghiệp, lối xóm chung quanh mà chúng ta chỉ thương họ không thôi, không có hậu ý gì cả, tự nhiên người tiếp nhận tình thương ấy sẽ rất quý trọng mình. Còn nếu chúng ta thương với một chủ tâm nào đó, khi người kia bắt được tín hiệu ấy tự nhiên tình thương sẽ co cụm, thu nhỏ lại liền. Cho nên quý vị phải tập thương không có chữ “muốn” kèm theo. Sau một thời gian quý vị sẽ nhận ra nó đem lại lợi lạc không chỉ cho mình mà còn cho nhiều người….

Tình thương có mấy loại ?

Chúng ta cũng có hai loại tình thương, một loại tình thương có sinh có diệt như tình mẹ thương con và loại tình thương bất sinh bất diệt là tình thương Phật trong chính chúng ta. Chúng ta chỉ nhìn thấy và sống trong tình thương sinh diệt, và do không thấy được cho nên chưa bao giờ sử dụng đến tình thương bất sinh bất diệt, thật là đáng tiếc.

Chúng ta cứ cãi cọ, gây gổ, hơn thua với nhau xuất phát từ tình thương sinh diệt mà chưa bao giờ biết thưởng thức vị ngọt ngào của loại tình thương bất sinh bất diệt tồn tại sẵn trong mỗi chúng ta. Đó chính là sự thiếu sót lớn nhất của con người.

Thay vì tính toán xem thử ta nên có thái độ xử sự như thế nào với người này người nọ thì tốt hơn hết chỉ nên chọn một thái độ duy nhất là âm thầm thương hết mọi người, chẳng cần phải phô trương ra cho ai biết. Riết rồi sẽ đến mức mình quên luôn việc mình thương người ta. Cứ tập thương hết từ cành cây ngọn cỏ, con người và cảnh vật, lúc nào cũng toả ra hào quang của tình thương, không đố kỵ ghét bỏ điều gì hết.

Khi quan sát một cây mai, chẳng những mình đem lòng thương nó mà từ đó ta còn thấy được tình thương của người khác. Hãy nghĩ đến công lao chăm sóc tưới tắm, nâng niu cây mai của người trồng hoa. Họ đã đổ bao nhiêu công sức, bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu trí tuệ để ngày nay nó được khỏe mạnh tươi đẹp. Trong một cây hoa như thế chứa đựng biết bao nhiêu tình thương của mọi loài, từ năng lượng của Trời đất mà nó hấp thụ đến chất dinh dưỡng của phân bón, nước, ánh sáng mặt trời, không khí để trưởng thành lên như ngày nay. Thế là ta sẽ giao thoa tình thương của mình với tình thương của bao nhiêu loài khác đối với một vật thể. Thật là mầu nhiệm vô cùng.

Một cây con từ khi còn là cái mầm nhỏ bé đến khi trưởng thành ẩn chứa bao nhiêu mầu nhiệm, nhưng điều dễ thấy nhất là tình thương. Khi đã ý thức được điều đó thì tình thương Phật trong chúng ta tuôn trào. Đặc điểm của tình thương Phật là bình đẳng, không phân biệt, không thu vào mà chỉ cho ra, lớn lao vô cùng tận không có giới hạn.

Đạo sư chia sẻ :

Những điều này tuy rất dễ thấy nhưng khó làm. Khi tập được rồi tự động trong tâm của chúng ta sẽ phát ra trí tuệ để chỉ dẫn cho ta cách thương và phát triển tình thương. Người thầy chỉ làm nhiệm vụ gợi ý, chỉ cho chúng ta biết trong tâm ta có sẵn tình thương, trong tất cả các vật thể có sự mầu nhiệm, phần chúng ta cố gắng thực tập rồi tự trong tâm ta sẽ phát ra luồng trí tuệ và sẽ có vô lượng người thầy trong tâm xuất hiện để hướng dẫn chúng ta. Tôi chỉ là một trong những ông thầy phụ, còn người thầy chính nằm trong tâm của quý vị.

Kính mong mọi người có thêm cách nhìn để cuộc sống tốt đẹp hơn,

hạnh phúc hơn và bình yên hơn.

Hơi Ấm Bàn Tay

  • Vote tăng 2

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

Quan niệm của Phan Bội Châu về bản tính của con người

 

Trong truyền thống tư tưởng của dân tộc Việt Nam, vấn đề con người luôn gắn liền với vấn đề dân tộc. Đặc biệt, mỗi khi Tổ quốc bị lâm nguy thì sự cố kết đó càng trở nên bền chặt hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, con người là yếu tố quyết định trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp nối và phát huy truyền thống đó, Phan Bội Châu - nhà tư tưởng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam trong khoảng hai chục năm đầu của thế kỷ XX đã để lại dấu ấn khá đậm nét về vấn đề con người trong lịch sử tư tưởng của dân tộc.

 

"Cùng thời với Phan Bội Châu, không thấy ai đả động tới vấn đề con người nhiều bằng Sào Nam, riêng điều ấy cũng chứng tỏ rằng tư tưởng của cụ Phan rõ cao hơn tư tưởng nhiều bạn đồng chí của mình".

 

Một nội dung có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề con người là vấn đề bản tính của con người. Vấn đề này đã được đặt ra từ thời cổ đai. Là nhà Nho yêu nước thấm nhuần truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, Phan Bội Châu cơ bản nhất trí với quan điểm của Mạnh Tử về vấn đề bản chất của con người, đó là: "Bản tính con người là thiện", là "thiên lương". Tuy thống nhất với Mạnh Tử như vậy, nhưng không phải Phan Bội Châu không có cách kiến giải độc đáo riêng của mình về vấn đề đó. Khi đưa ra căn cứ để lý giải tính bản thiện của con người, Phan Bội Châu cũng nêu ra bốn thuộc tính bẩm sinh vốn có hay bốn đầu mối của thiện, đó là: lòng thị phi (biết phải, trái), lòng tu ố (biết hổ thẹn), lòng tự nhượng (biết cung kính), lòng trắc ẩn (biết xót thương). Bốn thuộc tính đó được gọi là "tứ đoan", hay "thiện đoan” để giải thích bản tính của con người. Điều đáng quý là cách lý giải của Phan Bội Châu chứa đựng một tấm lòng yêu nước thiết tha, một khát vọng cháy bỏng vì độc lập, tự do cho đất nước, một niềm tin mãnh liệt vào lương tâm và trí tuệ của con người Việt Nam mỗi khi nó được đánh thức bởi nghĩa lớn của quốc gia. Ở Phan Bội Châu, bốn đầu mối của thiện luôn luôn hướng đến nghĩa lớn. Bởi thế, vì một lý do nào đó mà chúng ta đau thương nhất, vì lòng thiện mất thì nghĩa lớn không thành và nước sẽ mất. Phan Bội Châu viết: “Vì lợi ích chăm đua riêng để quên người khác mà lòng thị phi chế! Vì cầu an nhịn nhục mà lòng tu ố chết. Tranh nhau từng sợi tơ tóc mà lòng tự nhượng chết. Quên cái vạ chủng tộc mà lòng trắc ẩn chết. Mà mỗi khi lòng đã chết rồi thì đoàn thể làm sao có thể kết được? Nghĩa lớn làm sao có thể nêu cao được? Quyền công do lợi riêng mà phá hoại. Cái lo xa do lợi gần nước mắt che đậy".

 

Theo Mạnh Tử, bản tính của con người là thiện, vì ai cũng có tâm. Tâm là cái chủ đạo điều khiển mọi hành vi của con người. Tâm ta tỏ là nhờ có "lương năng" (cái người ta sinh ra không cần học mà hay và "lương tri " (cái người ta sinh ra không cần suy nghĩ mà biết). Do đó, con đường, biện pháp và mục đích của nhận thức là tận tâm, tri tính, tri thiên. Còn đối với Phan Bội Châu thì sao? Ông không đề cập đến "lương tri, lương năng" mà nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục, rèn luyện, đến sức mạnh của sự đoàn kết vì lợi ích chung của dân tộc, để tồn tầm dưỡng tín. Phan Bội Châu cho rằng chữ "tâm" phải luôn luôn đi liền với chữ “đồng” và điều cốt yếu của tâm là đồng lòng đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông nhắc nhở mọi người rằng: "Chữ "tâm" cốt phải ai ai cũng đồng". Đồng tâm vì nghĩa lớn của dân tộc trở thành một yêu cầu ghi lòng tạc dạ đối với mọi người Việt Nam và hơn thế nữa, ai ai cũng phải có tránh nhiệm vun đắp cho sự đồng tâm đó.

 

Theo Mạnh Tử, bản tính của con người được toát ra 'từ các hành vi xử sự lấy nhân, nghĩa, lễ, trí làm gốc. Bốn chuẩn mực này là cái vốn có do trời phú cho nên còn gọi lả "thiên lương". Phan Bội Châu cũng thừa nhận bốn chuẩn mực đó có trong nhân tính. Nhưng đối với Phan Bội Châu, phạm trù "nhân" không chỉ là yêu thương người, coi người như mình, tôn trọng nguyên tắc của xã hội, mà còn bao chứa nhiều mặt, nhiều yếu tố phong phú và mang một ý nghĩa tích cực, sâu sắc. Bởi lẽ , lòng yêu thương con người phải hướng đến lòng yêu nước thương nòi. Lông yêu nước chẳng những là phẩm chất cao quý của con người mà còn là trách nhiệm và mục đích của mọi suy nghĩ và hành động của con người. Trong "Hoà lệ cống ngôn" (1907), Phan Bội Châu viết: "Lấy nhiệt thành làm chính, lấy yêu nước làm mục đích, nhóm họp đoàn thể, trao đổi tri thức, phục tùng công lý, sứa đạo đức công dân, lập giao ước công dân, xướng quyền lợi công dân, giúp đỡ nhau, thương yêu nhau, không ghét nhau, không lừa dối nhau, không khinh khi nhau”.

 

Trong tác phẩm "Tạp ký", ông còn tiếp tục vạch rõ lòng yêu nước thương nòi là mục đích, bởi nó là nguồn gốc của tự do, độc lập, bình đẳng và tự cường. Như chúng ta đã biết, vấn đề tự do, bình đẳng là mục tiêu của giai cấp tư sản đã nêu lên nhưng không thực hiện được. Ở đây, Phan Bội Châu đã đưa ra mục tiêu đó và cho rằng nó trở thành yêu cầu và khát vọng không thể thiếu được trong mỗi con người Việt Nam. Điều đó chứng tỏ rằng trong khi phát huy truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, Phan Bội Châu còn biết tiếp thu những yếu tố tích cực trong các trào lưu tư tưởng phương Tây, trong đó có tư tưởng tự do và bình đẳng. Sẵn có một tấm lòng yêu nước thiết tha, Phan Bội Châu đã sớm có cảm tình và say mê với những tư tưởng của Môngtexkiơ và Rútxô.

 

Đối với Phan Bội Châu, lòng yêu nước không phải là một cái gì hư vô, trừu tượng, mà nó được bắt nguồn từ những cái rết gần gũi, rất cụ thể và rất đỗi chân thật đối với mỗi người. Chính ông dã tự đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi đó một cách tự nhiên và giản dị như mạch sống của chính mình: "Ôi! Nước là gì? Là họp người mà thành, họp ức triệu người lại mà thành.

 

Yêu nước là tính gì? Là suy cái lượng yêu mình, yêu nhà mà thành vậy.

Nước còn thì nhà còn, nước mất thì nhà mất. Nước vốn là đầu não của mình ta, nền tảng của ta vậy...

 

Người biết có mình thì ắt yêu mình, yêu nước tức là cái hình ảnh yêu mình phóng đại ra vậy.

 

Người đã có mình, có nhà thì đều có trách nhiệm yêu nước”.

 

Như vậy, yêu người là cơ sở nền tảng của yêu nước, yêu mình, yêu nhà. Chúng gắn bó chặt chẽ với nhau, hoà nhập vào nhau một cách tự niên. Chúng vừa đồng nghĩa với nhau, lại vừa là nguyên nhân và kết quả của nhau. Vì thế, triết lý của cuộc sống là nước mất thì nhà tan, cứu nước cũng là cứu nhà và cũng là tự cứu lấy mình, giải phóng dân tộc thoát khỏi gông xiềng nô lệ cũng chính là tự giải phóng cho mình. Lòng yêu thương con người đến mức như thế quả là đặc sắc và thấm đẫm tinh thần nhân văn cao cả trong truyền thống dân tộc Việt Nam. Quan điểm này có tác dụng kích thích tính năng động chủ quan của mỗi con người và củng cố thêm những giá trị bền vững, những tinh hoa vun đắp nên qua hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc.

 

Từ lòng yêu thương phát triển thành lòng yêu nước thương nòi cũng là vì nghĩa cả của dân tộc. Phan Bội Châu viết: "Hiểu được nghĩa đồng bào thì quốc gia càng thêm đầy đủ, mà ngày càng mạnh thêm. Đã biết đồng quốc là đồng bào thì biết hạnh phúc của người cùng nước, tức là hạnh phúc của đồng bào ta, tức là hạnh phúc của bản thân ta. Hạnh phúc của bản thân ta, chỉ khi nào tất cả đồng bào đều sung sướng, khi đó mới có thể nói hạnh phúc chân chính của ta được. Vì cả đồng bào mà mưu hạnh phúc thì dù có hy sinh bản thân cũng không nên tiếc. Không phải như thế lả không thương tiếc thân ta, mà chính ra rất thương tiếc thân ta đấy. Vì hạnh phúc đã khắp đồng bào thì bản thân ta khoái lạc và vinh quang mới rất mực vậy. Bởi thế cho nên những người đã rất yêu bản thân thì rất yêu đồng bào, mà đã rất yêu đồng bào tất yêu quốc gia, mà đã thật yêu quốc gia tất hy sinh vì quốc gia mà bỏ hết sự tư lợi của mình, đem hết sức mình ra bảo vệ tổ quốc. Nghĩa đồng bào thực là nguyên khi của quốc gia vậy. Ở đây, yêu nước là yêu đồng bào, yêu mình, lợi ích của quốc gia phải gắn liền với lợi ích của đồng bào và của bản thân. Như vậy, trong quan niệm của Phan Bội Châu, con người vừa có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với Tổ quốc và đồng bào, lại vừa tự ý thức được về mình - để tự mình quan tâm và giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra, tự mình vươn lên thích ứng với hoàn cảnh.

 

Coi trọng nhân nghĩa là đạo lý truyền thống Việt Nam. Nhận thức đầy đủ ý nghĩa của giá trị truyền thống đó, Phan Bội Châu, một mặt, khuyến khích mọi người làm những điều nhân ngay đối với mình, đối với gia đình và đối với xã hội, mặt khác, ông còn khuyên mọi người phải có trách nhiệm thực hiện tốt nghĩa vụ của mình vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của dân tộc, trong đó có cả gia đình và cá nhân. Người có nghĩa lớn là người dám chấp nhận hy sinh cho sự sống còn của dân tộc. Đối với Phan Bội Châu, nghĩa đồng bào chẳng những là nguyên khí của quốc gia mà còn là thiên chức của con người Việt Nam. Đó là vốn quý của con người Việt Nam và là một trong những nguồn cội tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

 

Nhân tính là yêu nước, nhân tính là nghĩa đồng bào, nhân tính là trí tuệ , nhân tính là bình đẳng. Ngay trong tác phẩm "Tạp ký", Phan Bội Châu đã giải thích sự bình đăng là một thuộc tính tự nhiên vốn có của con người, nên mọi người sinh ra đều có địa vị như nhau, do đó, không ai được tự đặt mình lên trên người và phân biệt đối xử giữa các hạng người. Ông viết: “Trời sinh ra người, có hình thể như nhau, có tính tình như nhau, ta không dám cậy mình là thánh thần mà bỏ những lời nói hay của người, ta không dám cậy khôn ngoan mà bỏ những nết tốt của người. Đấy là bụng nghĩ bình đẳng đã có mầm mống rồi đấy, duy người ta giẫm đạp lên mà không biết đấy thôi".

 

Như vậy, ta thấy rằng, tư tưởng trên của Phan Bội Châu đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của quan niệm dân chủ tư sản phương Tây.

 

Theo Phan Bội Châu, nguồn gốc và tôn chỉ của tự do là lòng yêu nước thương nòi. Vì thế, tự do là lẽ phải, là nhu cầu chính đáng của con người, tự do là cái lý mà không một thế lực nào có thể ràng buộc và ngăn cản nổi.

 

Nhân dân Việt Nam nhất định sẽ giành được tự do vì đó là một việc làm đầy nhân tính và hợp với đạo lý. Còn những kẻ đi tước đoạt tự do của người khác thì sớm hay muộn sẽ bị tiêu diệt vì đó là những kẻ nát nhân tính, phi đạo lý. Với Phan Bội Châu, tự do vừa là đạo lý, vừa là khát vọng của con người, nên lẽ đương nhiên là người Việt Nam không bao giờ chấp nhận làm thân phận của kẻ nô lệ, mà trái lại, phải vùng dậy đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Có thể nói rằng tư tưởng về tự do như vậy đã góp phần thắp sáng lên niềm tin mãnh liệt và tinh thần quật cường của dân tộc, vào sức mạnh của chính nghĩa và làm bùng lên khát vọng tự do vốn âm ỉ, nung nấu trong tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của Nho giáo nên Phan Bội Châu thường nhấn mạnh tự do là hành động theo các quy tắc, chuẩn mực đạo đức - gần với khuôn phép của lễ giáo phong kiến.

 

Đến đây, chúng ta có thể thấy rõ nội hàm của khái niệm "thiên lương" trong quan niệm của Phan Bội Châu không chỉ bó hẹp trong chuẩn mực nhân, nghĩa, lễ , trí, mà nó được mở rộng, đào sâu và được nâng lên bởi các chuẩn mực giá trị mới trên cơ sở tiếp thu những yếu tố tích cực của tư tưởng tư sản phương Tây, của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam và của Nho giáo. Bên cạnh con người cộng đồng, còn có con người cá nhân. Giữa con người cộng đồng và con người cá nhân có quan hệ mật thiết với nhau. Quan niệm này đã có ý nghĩa tích cực trong việc phát hiện và huy động sức mạnh vốn có của con người Việt Nam vào sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc. Song, đáng tiếc là Phan Bội Châu chưa đủ điều kiện để vươn lên tiếp nhận ánh sáng của quan điểm macxít về bản chất của con người, mà trong "Luận cương về phoiơbắc", C.Mác đã viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Phan Bội Châu chưa lý giải được bản chất xã hội của con người, chưa vạch ra được nguyên nhân xã hội là nguyên nhân sâu xa nhất, cơ bản nhất tạo ra nỗi bất hạnh của con người, hay chưa thấy đấu tranh giai cấp là để đi đến giải phóng loài người thoát khỏi áp bức và là một trong những động lực thúc đây sự phát triển của xã hội có giai cấp. Cũng qua đầy, chúng ta nhận thấy: "Thuyết thiên lương của Phan Bội Châu phản ánh lòng tin mãnh liệt vào tinh thần dân tộc của đồng bào, vào khả năng cách mạng của nhân dân. Nhưng đây cũng là một nhược điểm của Phan Bội Châu: cụ không biết hay không muốn biết rằng nếu có những tầng lớp xã hội triệt để yêu nước và cách mạng nào cũng có những tầng lớp xã hội khác lừng chừng đối với kẻ xâm lược, và lại còn kẻ dù là người Việt Nam vẫn ôm chân bọn thực dân ngoại quốc. Cụ không biết giai cấp và đấu tranh giai cấp là gì, quan hệ với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc như thế nào, cho đến đỗi cụ cho rằng bọn Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân "cũng còn có lương tâm yêu nước". Dưới góc độ ấy thuyết ‘thiên lương" trở thành hàm hồ, nguy hiểm". Chính điều này đã được Phan Bội Châu thừa nhận trong "Lời tự phán": Đối đãi với người quá chừng thật, thường bảo trong thiên hạ không một người nào không tin được. Đó là tội vì không cơ cảnh quyền thật”.

 

Những hạn chế trên đây không làm mất đi nét riêng biệt đặc sắc trong tư tưởng của Phan Bội Châu về bản tính của con người. Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, trên cơ sở tiếp thu những yếu tố tích cực trong các trào lưu triết học phương Tây, P han Bội Châu cho rằng, bản tính con người là "thiên lương". Hàm chứa trong khái niệm "thiên lương" là những dấu hiệu cơ bản mà ở đó, ngoài dấu hiệu trước đây Nho giáo đã từng nêu lên, còn có những dấu hiệu mới như tự do, bình đẳng... Tất cả những dấu hiệu đó đều thấm đượm chủ nghĩa yêu nước, đều hướng tới một mục đích chung là khơi đậy và phát huy nguồn sức mạnh của con người Việt Nam vào sự nghiệp cứu nước giải phóng đồng bào. Bởi vậy "thiên lương" ở đây vừa mang đậm giá trị truyền thống, lại vừa phong phú và hiện đại hơn so với quan niệm trước đây.

 

(Theo Nguyễn Văn Hòa-Tạp chí Triết học)

  • Vote tăng 2

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

Tuy thống nhất với Mạnh Tử như vậy, nhưng không phải Phan Bội Châu không có cách kiến giải độc đáo riêng của mình về vấn đề đó. Khi đưa ra căn cứ để lý giải tính bản thiện của con người, Phan Bội Châu cũng nêu ra bốn thuộc tính bẩm sinh vốn có hay bốn đầu mối của thiện, đó là: lòng thị phi (biết phải, trái), lòng tu ố (biết hổ thẹn), lòng tự nhượng (biết cung kính), lòng trắc ẩn (biết xót thương). Bốn thuộc tính đó được gọi là "tứ đoan", hay "thiện đoan” để giải thích bản tính của con người. Điều đáng quý là cách lý giải của Phan Bội Châu chứa đựng một tấm lòng yêu nước thiết tha, một khát vọng cháy bỏng vì độc lập, tự do cho đất nước, một niềm tin mãnh liệt vào lương tâm và trí tuệ của con người Việt Nam mỗi khi nó được đánh thức bởi nghĩa lớn của quốc gia. Ở Phan Bội Châu, bốn đầu mối của thiện luôn luôn hướng đến nghĩa lớn.

Góp với bạn Hương: Đối với 1 tác phẩm văn học, bạn đăng đầy đủ, còn với dạng bài viết về triết học, chỉ nên trích dẫn đoạn ngắn và cho thêm đường dẫn tiện hơn, vì không phải ai cũngcó thời gian thư giãn kiểu triết học, đọc nhức đầu lắm.

  • Vote tăng 1

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

Sách cảnh tỉnh về thói hư tật xấu của người Việt

 

Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, “người hay nói về nhược điểm của đồng nghiệp”, đang góp nhặt những lời người xưa cảnh tỉnh về thói hư tật xấu của người Việt và dự định sẽ in thành sách.

http://vietbao.vn/Van-hoa/Sach-canh-tinh-v...t/70061572/181/

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

Đọc "Người Trung Quốc Xấu Xí"

Cách đây hai tuần, khi vừa đọc xong, tôi tìm cách gặp dịch giả Nguyễn Hồi Thủ, mong được phép chất vấn ông. Bởi tôi đinh ninh ông dùng tựa sách này để nói về người mình, như mấy ông Mỹ, Nhật và cả Việt nữa trong quá khứ: Người Mỹ ưu tư, người Mỹ trầm lặng, người Nhật xấu xí, người Việt cao quí. Chính Nguyễn Hồi Thủ nói đến quyển này trong "lời người dịch", quá nhiều bóng dáng (người) mình trong đó. Tôi nghi rằng NHT sợ đi chợ khu 13 bị "anh em" chận đường... hỏi tội, nếu ông dám giữ tựa đề "Người Việt xấu xí".

http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-Su...ng_Quoc_Xau_Xi/

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

Thi ca và sự tầm thường hóa

Võ Tấn Cường Tiểu luận của Võ Tấn Cường

Thời bùng nổ thông tin, công nghệ quảng cáo và các phương tiện truyền thông cộng hưởng với nhau tôn xưng những giá trị thật và giả của hàng hóa. Con người hiện đại bị bao phủ, đắm chìm trong cấu trúc của âm thanh, hình ảnh và ngôn ngữ của quảng cáo. Thế giới vô thức của con người bị lấp đầy bởi cái ma mị, dối lừa của quảng cáo. Công nghệ quảng cáo tạo ra nguy cơ hạ thấp phẩm giá con người và đánh đồng con người với hàng hóa, đồ vật. Quảng cáo khuyến dụ, ru ngủ con người trong những nhu cầu của cảm giác nhục thể và sự thỏa mãn xác thịt.

 

Sự tầm thường đang bủa vây, chi phối không gian sống, không gian văn hóa và tác động đến từng nếp cảm, nếp nghĩ, hành vi của con người. Con người hiện đại chạy theo việc thỏa mãn nhu cầu thông tin, nhu cầu tiêu dùng nhưng lại thường xem nhẹ nhu cầu tâm linh. Sự thờ ơ của một số người đối với thi ca không phải là do thi ca không kịp vận động để thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người.

Con người sống thiếu thi ca có thể vẫn khỏe mạnh về thể xác nhưng dễ bị “bại liệt” về linh hồn, trở thành những người bị “mù” về lòng tin. Cái đẹp và cảm xúc thăng hoa của hình tượng, ngôn ngữ bài thơ tác động trực tiếp vào trực giác, vô thức của người đọc. Thông qua sự liên tưởng và tưởng tượng của người đọc, thi ca chắp cánh cho tâm hồn con người hướng về thế giới siêu cảm và cái đẹp lung linh, huyền diệu.

Chính điều này sẽ thanh lọc tâm hồn con người, tẩy rửa cảm xúc nhục thể của trần thế, giúp con người thoát khỏi sự bủa vây của cái tầm thưThi ca của một số nhà thơ hiện đại đang bị tầm thường hóa do các nhà thơ hướng suy tưởng, cảm xúc thẩm mỹ vào cái tầm thường dung tục. Quan hệ tính giao, cái tầm thường của cõi trần thế được các nhà thơ đưa vào bài thơ ồ ạt, thiếu sự sàng lọc, thăng hoa đã đẩy thi ca vào nguy cơ tuyệt lộ. Sự tầm thường hóa là căn bệnh của thi ca thời Internet.

 

Thi ca thời Internet mở rộng tận cùng biên độ thẩm mỹ, dung nạp cả cái dung tục, tầm thường và quái dị vào thế giới của cái đẹp. Chúng ta đang cảnh báo về hiện tượng nhập rác - điện - tử nhưng các nhà văn hóa, các nhà phê bình văn học vẫn chưa báo động về hiện tượng rác - thơ. Nhà thơ có thể thử nghiệm mọi phương thức sáng tạo để khám phá bản ngã và vũ trụ nhưng không nên làm tầm thường hóa thi ca bằng thứ thơ - rác. Thơ - rác là thứ thơ phản bội nguyên lý sáng tạo của thi ca và thiên chức của nhà thơ. Thơ - rác xuất hiện trên Internet dẫn đến nguy cơ bào mòn, gây trơ lì cảm xúc thẩm mỹ của con người, khiến con người dễ bị “lãnh cảm” với cái đẹp của nghệ thuật và cuộc sống.

Sự tầm thường hóa còn biểu hiện ở những bài thơ viết theo khuôn mẫu của cái đẹp cổ điển mang cảm xúc nhạt nhẽo và phổ biến. Những bài thơ vô thưởng vô phạt kiểu này không chỉ thủ tiêu tính sáng tạo của nhà thơ mà còn khiến bạn đọc bị bao vây bởi cái tầm thường, trở nên “dị ứng” với những bài thơ đích thực.

 

Văn xuôi có thể khắc họa cái tầm thường chi phối tâm trạng và cuộc sống của con người. Thi ca chỉ có thể bộc lộ những cảm xúc thăng hoa và cái đẹp lung linh, huyền ảo. Cái tầm thường có nguy cơ phá hủy cái đẹp của nghệ thuật thi ca. Nhà thơ trên con đường sáng tạo đầy cô đơn và nhọc nhằn phải thoát khỏi cái tầm thường để tạo dựng một thế giới siêu cảnh, huyền diệu và hướng con người về thế giới của tình thương, cái đẹp. Võ Tấn Cường - Văn nghệ Tiền Giang số 13

  • Vote tăng 1

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

Trần Nho Thìn

Bình Ngô đại cáo dưới ánh sáng của loại hình học văn hoá trung đại

 

Lời tác giả: Nhân vừa đọc một bài rất thú vị của Liam C. Kelley về quan hệ văn hoá Việt Trung, tôi nảy ý định gửi bài viết dưới đây cho talawas để bạn đọc cùng tham khảo. Hiện nay trong nước đang có phong trào viết lại lịch sử văn học và lịch sử văn hoá Việt Nam, những bài như của Liam C. Kelley cần được tham khảo và tranh luận. Nghiên cứu mối quan hệ giao lưu văn hoá nói chung và văn học nói riêng giữa Trung Quốc và Việt Nam hiện không còn là việc làm mới mẻ nữa. Trong công việc này, cùng với các nhà nghiên cứu ở trong nước, có sự tham gia của nhiều học giả nước ngoài và cả các học giả người Việt trên khắp thế giới. Thống nhất về quan điểm, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu do đó là chuyện không tưởng. Tuy nhiên, có lẽ cũng cần có sự thống nhất chí ít trên một vài phương diện căn bản nào đó. Chẳng hạn, theo chúng tôi, trước hết, cần có một cái nhìn lịch sử về mối quan hệ này. Hiển nhiên đây là mối quan hệ thay đổi theo thời gian, cần móc nối từng thời điểm với những nét riêng biệt lại thành bức tranh toàn thể, sau đó mới có thể kết luận chung. Thứ hai là cần tính đến tư liệu khảo sát mối quan hệ giao lưu này. Các tư liệu của văn học, sử học hoặc khảo cổ học có thể không hoàn toàn “ăn khớp” nhau. Nhưng điều đó không có nghĩa là tư liệu này có giá trị hơn tư liệu kia. Trống đồng thuộc về thời kỳ văn hoá cổ đại, có thể cho ta bức tranh văn hoá Hoa - Việt khác hẳn tài liệu thơ văn chữ Hán vốn thuộc về thời kỳ muộn hơn nhiều. Khớp nối chúng lại, ta có thể hình dung sự “thay bậc đổi ngôi” trong quan hệ nói trên và từ đó, tìm hiểu nguyên nhân thay đổi đó, may ra việc nghiên cứu quá khứ có ích cho hiện tại.

 

 

*

 

 

Một trong những đặc điểm cơ bản có tính bao trùm, chi phối mọi phương diện của văn hoá phương Ðông thời cổ, trung đại là việc xem xét con người và thế giới trong mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời, là việc vũ trụ hoá thế giới con người, xem xét Thiên đạo (đạo Trời) và Nhân đạo (đạo Người) như một thể thống nhất. Khái niệm Thiên (Trời) vừa chỉ một nhân cách có ý chí tối cao, vừa chỉ đạo, tức là quy luật tự nhiên. Tuy nhiên, đằng sau những quy luật vận hành của vũ trụ luận âm dương, người xưa vẫn cảm thấy có một thế lực huyền bí nào đó chi phối. Do có đấng tối cao này mà toàn thể vũ trụ, trong đó có con người, vạn vật sống và hoạt động trong cùng một nhịp điệu, một tiết tấu, một “đạo” chung. Thuyết quái truyện khi giảng về bát quái, cho rằng đạo Trời là âm dương, đạo đất là cương nhu, đạo người là nhân nghĩa. Song tất cả các phạm vi không gian Trời, Người đều có thể giải thích, nhận thức bằng các vạch liền và vạch đứt (dương và âm) trong sự thay đổi vị trí kết hợp của chúng. Giữa Trời và Người có một mối quan hệ liên thông được người ta gọi là thiên nhân tương dữ hay thiên nhân tương cảm. Việc cảm thụ thế giới, cụ thể là không gian và thời gian của người xưa in đậm dấu ấn của vũ trụ luận này.

 

Thực ra, không phải đợi đến khi xuất hiện các nhà tư tưởng, các nhà triết học thì người xưa mới vũ trụ hoá tồn tại nhân thế. Người nông dân làm ruộng, do nhu cầu canh tác mà bắt buộc phải tiếp nhận không gian xung quanh mình như là một không gian sinh tồn với những điều kiện tồn tại hiện thực liên quan đến thời tiết, mùa vụ, thổ nhưỡng, giống, v.v... Tục ngữ Việt Nam không ít những câu phản ánh tổng kết kinh nghiệm thực tiễn:

 

* “Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa”.

* “Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa”.

* “Tháng tám nắng rám trái bưởi”.

 

Tuy nhiên, do hạn chế về nhận thức, do sống lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên người nông dân còn sống trong một thứ không gian – thời gian mang tính chất tâm linh, mang tính chất vũ trụ. Thế giới với họ không chỉ là các hiện tượng có thể cảm nhận một cách duy lý mà còn là các hiện tượng huyền bí. Ðó là những không gian của những “thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”, của đủ thứ thần thánh, Phật tiên mà kẻ có bệnh phải “vái tứ phương”. Ðó là thời gian giỗ, tết, các lễ hội có phần lễ thiêng liêng, những thời điểm giúp con người giao hoà với trời đất, thiên nhiên và các thế lực thánh thần.

 

Nhưng dẫu sao phải thừa nhận các nhà triết học cổ đại Trung Hoa đã dựng lên một hệ thống khá chặt chẽ phản ánh mối quan hệ lệ thuộc, gắn bó giữa con người và thế giới. Trong sự cảm nhận của họ, thế giới có tính lưỡng nguyên rõ rệt, một mặt, đây là thế giới trần thế, hiện thực, mặt khác, đó cũng là một thế giới tâm linh, thế giới của những biểu trưng của đạo Trời. Cuộc tranh hùng trong Tam quốc diễn nghĩa không chỉ là sân khấu hoạt động của các anh hùng mà còn được người xưa hình dung như là một biểu tượng vĩ đại của quy luật huyền vi “thế lớn trong thiên hạ, chia lâu rồi lại hợp, hợp lâu lại chia”. Xã hội Truyện Kiều trong sự cảm nhận của Nguyễn Du, một mặt như là tấn trò đời, mặt khác là một cuộc biển dâu. Trình diễn trong Tấn trò đời là những con người hiện thực, song hoạt động trong cuộc biển dâu lại là những thế lực bí ẩn. Ðược mùa lớn liên tiếp mấy năm liền có thể là do công sức lao động của người nông dân cộng với mưa thuận gió hoà. Nhưng người xưa lại có thể nhìn thấy ở đây một thực tại khác, một thực tại biểu trưng cho đức sáng của nhà vua đã có thể cảm hoá trời và được trời giáng phúc. Thân Nhân Trung đã hoạ ý thơ của Lê Thánh Tông như vậy :

 

Cách thiên đế đức diệu toàn năng,

Hiệp ứng hưu trưng bách cốc đăng.

 

(Ðức của vua hoà hợp với Trời nên tài đức được phú cho trọn vẹn,

Ðiềm lành hiện ra, mùa màng tươi tốt).

 

Mùa xuân về là một hiện tượng bình thường của tự nhiên, song người ta lại muốn cảm nhận nhịp tuần hoàn vĩnh cửu của tự nhiên qua sự tương tác của hai khí âm, dương :

 

Âm dương hai khí mặc xoay vần,

Nẻo quá thì đông đến tiết xuân.

 

Chúng tôi tạm dùng khái niệm thực tại trần thế và thực tại vũ trụ để chỉ hai loại thực tại của văn hoá trung đại. Ðể minh hoạ rõ hơn cho nội dung của hai khái niệm này, chúng tôi sẽ phân tích một tác phẩm của Nguyễn Trãi trước khi đi vào tìm hiểu Bình Ngô đại cáo. Ðó là Dư địa chí.

 

Theo quan điểm hiện đại, thật khó xác định bản chất thể loại của Dư địa chí. Tác giả khảo sát, mô tả, ở nhiều chỗ là rất cụ thể, tỷ mỷ, kỹ lưỡng về các mặt địa hình, dân số, sông ngòi, thành quách, thổ nghi, đặc sản các vùng, các xứ. Nhưng nếu tiếp tục đọc, ta sẽ thấy tác giả khảo sát chất đất của từng xứ bên cạnh việc mô tả phong tục tập quán của dân địa phương, tả cách ăn mặc và tiếng nói của các tộc người bên cạnh chuyện quỷ thần ở núi sông, thậm chí kể cả các dân tộc ở bên ngoài “bốn biển”, tức là ở bên ngoài bản đồ địa lý của Ðại Việt. Một cái nhìn duy lý, hiện đại sẽ thấy dễ dàng một tình trạng có vẻ như “lộn xộn”, “tuỳ tiện” đến khó hiểu của tác giả. Viết về địa lý, hà cớ gì nói đến chuyện thần thánh, chuyện người hiền, vật lạ ở mỗi vùng, thậm chí lại đề cập cả chuyện của người nước khác? Tuy nhiên, nếu ta phục hồi phương thức mà nhà nho xưa cảm thụ không gian địa lý thì mọi thắc mắc sẽ sáng tỏ. Với người xưa, không gian địa lý không đơn giản chỉ là môi trường sinh tồn của dân tộc với mọi đặc điểm tự nhiên của nó cần phải nắm bắt để khai thác và cải tạo. Trong con mắt của người xưa, đó còn là vùng không gian chịu ảnh hưởng năng lượng Ðức của hoàng đế. Theo quan niệm này, nhà vua vì có Ðức lớn nên nhận được mệnh Trời, thay mặt Trời (“Ðại thiên hành hoá”, “Thế thiên hành hoá”) làm công việc hoá dục, phổ năng lượng của mình vào toàn bộ Thiên hạ (dưới Trời). Khổng Tử nói: “Làm chính trị nhờ vào Ðức cũng giống như sao Bắc Ðẩu đứng yên một chỗ mà các vì sao khác đều châu tuần về”. Nói bằng ngôn ngữ hiện đại, có thể hình dung mô hình không gian địa lý – xã hội của nhà nho như là một từ trường mà nguồn phát ra từ trường này chính là vua. Năng lượng Ðức mà nhà vua phát ra có khả năng thu hút vạn vật khắp bốn biển châu tuần về quanh mình. Ðó là một trong những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc biên soạn loại sách địa chí ngày xưa. Soạn giả ít nhất là triển khai công việc trên hai phương diện:

 

1. Xem xét tất cả người, vật, đất đai, sông núi không ngoại trừ vật gì, thứ gì đều thuộc vùng ảnh hưởng, thuộc “từ trường” năng lượng Ðức của nhà vua. Cả các thần sông núi, các thần thánh khác cũng được sắc phong để chính thức, “hợp lệ” nằm trong vùng từ trường này. (Ðiều đó rất phù hợp với ý của Nguyễn Ðình Chiểu về “tấc đất”, “ngọn rau” cũng thuộc về vua hay câu chuyện Bá Di – Thúc Tề ở Trung Quốc xưa đã cự tuyệt nhà Chu đến mức từ chối ăn rau vi và chết đói). Không phải ngẫu nhiên mà sau này, viết chương mở đầu cho Ðại Nam nhất thống chí, cũng là một thứ dư địa chí người ta sẽ mô tả tỷ mỷ kinh đô Huế (kinh đô mới của Việt Nam), trước hết là cung điện của nhà vua như một tiêu điểm hội tụ năng lượng vũ trụ. Ngay từ đời Lý, trong Thiên đô chiếu, Lý Thái Tổ đã ý thức rất rõ rằng kinh đô là điểm có thể quyết định chuyện “quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ” (vận nước dài lâu, phong tục thịnh vượng).

 

2. Ðức trị của nhà vua đã đạt tới mức năng lượng toả phát, lan rộng ra xa ngoài biên giới, nhuần thấm đến các dân tộc ngoại bang. Do đó, một cuốn dư địa chí sẽ phải bao gồm cả việc các nước phương xa hướng về triều cống như hướng về sao Bắc Ðẩu, như bị hút về phía trung tâm truyền phát năng lượng này. Rất có thể ngày xưa, các dân tộc lân bang đến Ðại Việt thuần tuý như là các dân tộc có quan hệ ngoại giao, song họ nhất định bị xem như là đến triều cống. Trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi viết “Ðức giáo của nhà vua đã lan xa đến bốn xung quanh, các nước chư hầu đều đến triều cống”. Theo nguyên lý này, ông ghi chép cả việc các nước Chiêm, Xiêm, Chân Lạp đến cống nạp với những cống vật đặc sản cụ thể như đồi mồi, voi trắng, hoa chi, kiến chín tấc, v. v. Chúng ta lưu ý ông dùng chữ Ðức giáo (năng lượng giáo hoá), vì ông sẽ nhắc nhở dân ta không được bắt chước cách ăn mặc, cách nói của các dân tộc lân bang vì có thể “làm rối loạn phong tục trong nước”. Ðức giáo rõ ràng có nội dung là năng lượng giáo hoá của văn minh, văn hiến. Nguồn năng lượng phát ra chỉ một chiều chứ không thể có ngược chiều lại, tức là chỉ từ trung tâm lan ra bốn bể chứ không thể từ bốn bể về trung tâm. Kể cả trong quan hệ đối sánh với Trung Hoa thì cũng không có chuyện ta là vùng chịu ảnh hưởng năng lượng của các hoàng đế thiên triều. Bởi vậy mà trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi cẩn thận ghi lại việc vua nhà Minh ban cho sứ thần của Trần Dụ Tông bốn chữ “Văn hiến chi bang”! Cảm hứng của Dư địa chí là khẳng định một vùng không gian độc lập nằm trong “từ trường” ảnh hưởng của Ðức của các nhà vua Ðại Việt.

 

 

Ðể kết thúc Dư địa chí, Nguyễn Trãi viết: Hoàng đế (chỉ Lê Thái Tông – T.N.T.) phán rằng: “Ðức Thái Tổ vất vả mười năm mới bình định cả thiên hạ, truyền cho con cháu, mong được muôn đời. Trẫm không có Ðức, lạm ở ngôi vua, nhờ các quan trung thành, hiền lương cứu giúp để lo việc thủy chung, khiến cho Ðức của ta được sáng khắp bốn biển”. Không gian đất nước từ Lê Lợi truyền qua Lê Thái Tông, đó là không gian vũ trụ, một không gian từ trường của năng lượng Ðức toả phát. Ngay từ thời Lê Lợi khởi nghĩa, theo Nguyễn Trãi cho biết ở phần kết Dư địa chí, các bầy tôi đều tôn ông là “Ðại thiên hành hoá” (Thay Trời để làm công việc giáo hoá).

 

Như vậy, qua Dư địa chí, có thể thấy trong cách cảm thụ về thế giới của người thời xưa, có hai thứ không gian cùng tồn tại: một không gian vũ trụ chồng xếp lên không gian trần thế. Miêu tả không gian trần thế, hiện thực chịu sự chế định của nhu cầu diễn đạt không gian vũ trụ, điều mà tư duy duy lý của con người hiện đại rất khó hình dung nếu không phục hồi lại cách thức cảm thụ thế giới của chính người xưa. Theo chúng tôi, từ góc nhìn này, cần hết sức thận trọng khi có chủ trương cho rằng Nguyễn Trãi đã nêu lên một định nghĩa khá hoàn chỉnh về dân tộc. Rất có thể việc ông mô tả cương vực, văn hoá, hiền tài, phong tục chỉ đơn giản là tạo lập một vùng không gian vũ trụ nằm trong vùng ảnh hưởng năng lượng Ðức của các triều đại phong kiến Ðại Việt chứ không nghĩ về một thị trường thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất hay một nền văn hoá thống nhất... như ta ngày nay hiểu về dân tộc. Nói cách khác, vấn đề “độc lập dân tộc” được Nguyễn Trãi hình dung khác với chúng ta ngày nay.

 

Nguyên lý về sự đồng tồn tại của hai loại thực tại như một nguyên lý căn bản của văn hoá trung đại cần được lưu ý khi phân tích một tác phẩm quan trọng như Bình Ngô đại cáo. Sự tiếp cận chỉ riêng thứ thực tại trần thế sẽ làm nghèo đi những thông tin mỹ học lý thú của tác phẩm.

 

Mọi người đều biết trong bài Cáo, hai chữ nhân nghĩa là nền tảng của tác phẩm. Hầu hết mọi luận văn nghiên cứu Nguyễn Trãi đều có đề cập đến vấn đề nhân nghĩa này. Tuy nhiên, có một câu hỏi căn bản cần được trả lời Nhân nghĩa nói đến trong bài Cáo là phẩm chất đạo đức của ai? Nếu đặt bài Cáo vào hệ thống các trước tác của Nguyễn Trãi viết trước và sau bài Cáo, dễ thấy rằng nhân nghĩa chính là phẩm chất đạo đức của nhà lãnh đạo, là đường lối, là chiến lược ứng xử của vua với tư cách nhà lãnh đạo, với dân, đối tượng cai trị. Từ những bức thư gửi cho các tướng giặc Minh qua Bình Ngô đại cáo đến thơ văn, ông đều hiểu như vậy. Ta đều gặp những mệnh đề cho biết nhân nghĩa là đường lối hành xử của kẻ cai trị, kẻ lãnh đạo với dân. Ví dụ “Ðạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc”, “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, viện công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”, hoặc “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.

 

Trong cách hiểu của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa bao hàm những nội dung gì? Viết thư cho tướng giặc Phương Chính, ông tố cáo bản chất bất nhân bất nghĩa của chúng. Hãy xem những lập luận của ông : “…bọn mày chỉ chuyên lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không xót thương”, “nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng điếu dân phạt tội, kỳ thực là làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước ta, bóc lột dân ta, thuế nặng, hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn các làng không được yên sống. Nhân nghĩa lại làm thế ư?”. Ðến Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo sự bất nhân bất nghĩa của chúng một cách cụ thể hơn, hùng hồn hơn:

 

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế,

Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng,

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng...

… Ðộc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Ðông Hải không rửa hết mùi !

Lẽ nào trời đất dung tha ?

Ai bảo thần nhân chịu được ?

 

Tổng hợp lại, ta thấy kẻ địch bất nhân nghĩa vì có những việc làm sau:

 

* Không có đạo chí thành (chúng lừa dối).

* Giết hại kẻ vô tội.

* Không để cho dân thường được sống yên ổn: thuế má nhiều, hình phạt lắm, bóc lột nhân dân.

* Vơ vét, cướp bóc sản vật quý của nước ta.

* Chúng tàn phá cả thiên nhiên, cây cỏ, cả côn trùng, vạn vật.

 

Tóm lại, chúng không có đạo chí thành, chúng tàn hại không chỉ con người mà cả thiên nhiên, tạo vật. Chúng chà đạp lên cả nhân đạo lẫn thiên đạo nên trời đất, thần thánh và con người đều phẫn nộ. Mầm mống thất bại, diệt vong đã hàm chứa trong hành động bất nhân nghĩa đó. Ðến đây, chúng ta có thể dẫn lại hoàn chỉnh lập luận của Nguyễn Trãi trong các thư gửi Phương Chính: “Ðạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng giúp thêm. Nay bọn mày chỉ chuyên lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không xót thương. Việc ấy trời đất không dung, thần người đều giận, cho nên liền năm chinh phạt, càng đánh càng thua”. Ở một bức thư khác, sơ đồ lập luận cũng tương tự: “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, viện công to phải lấy nhân nghĩa làm nghĩa đầu. Duy nhân nghĩa có đủ thì công việc mới thành được. Nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng điếu dân phạt tội, kỳ thực là làm việc bạo tàn, tấn cướp đất nước ta, bóc lột dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn các làng không được yên sống. Nhân nghĩa lại làm thế ư ? Nay ở nước mày, dân oán thần giận, kế tiếp có đại tang, thế mà đã không biết tự xét lỗi mình, lại còn cùng binh độc vũ...”.

 

Nhân nghĩa không chỉ thuộc phạm vi nhân sự mà còn thuộc phạm vi thiên đạo. Không gian đất nước qua lăng kính nhân nghĩa hiện hình như một không gian vũ trụ, tâm linh. Nếu ở Dư địa chí, ta đã thấy đằng sau một không gian đất nước là một không gian vũ trụ, nơi chịu ảnh hưởng từ trường của Ðức thì ở Bình Ngô đại cáo ta lại bắt gặp không gian vũ trụ này. Dấu hiệu căn bản của vùng từ trường toả phát năng lượng của Ðức nhà vua là hiền tài, là phong tục tốt đẹp, là các đặc sản, kỳ trân dị thú của các miền... Các dấu hiệu này cũng được liệt kê trong Bình Ngô đại cáo khá đầy đủ.

 

Ðiều đặc biệt của Bình Ngô đại cáo là Nguyễn Trãi giới thiệu cả ảnh hưởng tiêu cực của sự bất nhân bất nghĩa của kẻ thù. Vậy thì không gian vũ trụ có thể là phạm vi toả phát năng lượng tích cực của Ðức mà cũng có thể là phạm vi ảnh hưởng tiêu cực của sự vô đạo đức. Chỉ có điều, kẻ xây dựng nên vùng không gian ảm đạm, bi thảm như giặc Minh không thể tránh khỏi sự trừng phạt của người và trời “Lẽ nào trời đất dung tha, ai bảo thần nhân chịu được”.

 

Ðiều đáng chú ý là trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi không đề cao quyền mưu bằng nhân nghĩa. Quyền mưu thực chất là các yếu tố hiện thực dẫn đến thắng lợi, đó là binh pháp, là chiến lược, chiến thuật, các biện pháp tổ chức v.v. Cố nhiên, không thể cứ ngồi ôm đức nhân nghĩa chờ cho chiến thắng tự đến. Nguyễn Trãi không phủ nhận quyền mưu, song ông không coi đây là nhân tố cơ bản. Ông có nhắc tới:

 

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

 

Ông nói tới việc “điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong” hay việc “sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực” của kẻ thù. Ðó là những “mưu kế kỳ diệu” góp phần đem lại chiến thắng. Nhưng như ông viết:

 

Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

 

Nguyễn Trãi diễn tả cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong một không gian vũ trụ, trong đó vị lãnh tụ Lê Lợi hội tụ đầy đủ năng lượng vũ trụ để có thể toả phát ảnh hưởng tích cực tới toàn bộ không gian đó. Thực ra, việc giới thiệu Lê Lợi như một trung tâm điểm tích luỹ năng lượng kỳ vĩ của vũ trụ là cảm hứng không chỉ của riêng Bình Ngô đại cáo. Theo cách diễn tả của Nguyễn Trãi trong Lam Sơn thực lục (viết sau Bình Ngô đại cáo), tổ tiên, ông cha Lê Lợi và bản thân Lê Lợi đã chủ động, tích cực tạo lập cho mình năng lượng của Ðức. Sau khi chiến thắng giặc Minh xâm lược, Lê Lợi vẫn cùng các quan luận bàn về những “nguyên nhân hưng vong, đắc thất”, có bận ông nói: “Ngày nay thành công là do hoàng thiên giúp đỡ mà tổ tiên của trẫm chứa đức tích nhân đã lâu cũng ngấm ngầm phù hộ nên mới được thế này”. Viết Lam Sơn thực lục, Nguyễn Trãi trung thành với ý tưởng này. Không phải ngẫu nhiên mà ông kể về việc tích tụ năng lượng Ðức của gia đình Lê Lợi: tổ tiên của Lê Lợi chọn thế đất làm nhà; Lê Lợi được một nhà sư Ai Lao tìm cho một thế đất táng mộ cha rất tốt khiến cho chính kẻ địch cũng lo sợ, đã cho người lén đào hài cốt này đem đi và Trịnh Khả, Lê Bị đã đội cỏ bơi theo thuyền giặc lấy lại tiểu đựng hài cốt đem về chôn lại chỗ cũ. Những điều này có thực hay không thật khó mà biết, chỉ có điều chắc chắn là chúng phản ánh quan niệm xưa về phong thuỷ như là sự tương tác, kết hợp của hai khí âm dương để tạo ra một tiêu điểm tích hợp năng lượng cao nhất, có lợi nhất cho thân chủ. Ðồng thời Nguyễn Trãi cũng kể lại những yếu tố thuộc về đạo người cũng có giá trị dẫn đến sự tích luỹ năng lượng Ðức: “Tổ của vua [... ] nối dõi nghiệp nhà, theo chí người trước, tính hiền hoà, hay vỗ về dân chúng, khoan nhân và thương người, xa gần hướng về, ngày càng mến phục”, “thân phụ của vua, tính vui vẻ, hiền lành, hay làm việc thiện, mến đãi tân khách, yêu thương dân chúng. Phàm có người đói khổ, túng thiếu, bệnh tật, chết chóc tất chu cấp giúp đỡ, dân cõi láng giềng cũng coi như người cùng một nhà, do đó chẳng ai là không cám ơn và phục nghĩa”. Bản thân Lê Lợi thì gặp thời loạn lạc, “ngầm nuôi kẻ sĩ mưu trí, bỏ của phát thóc giúp người cô bần, nhún lời, hậu lễ để thu hào kiệt”. Những nội dung chủ yếu của nhân nghĩa ở đây có thể quan sát thấy: yêu thương con người và làm điều thiện một cách vô tư, không vụ lợi.

 

Chúng ta ngày nay khó hình dung nổi cảm giác của người dân Ðại Việt khi đánh bại quân Minh xâm lược. Còn với Nguyễn Trãi, sau khi chiến tranh kết thúc, trong bài thơ Hạ quy Lam Sơn, dường như ông vẫn chưa hết kinh ngạc vì thắng lợi diễn ra một cách chóng vánh, mau lẹ “Nhất nhung đại định hà thần tốc” (Một chiến dịch đem lại nền đại thịnh, sao mà mau chóng vậy). Trong Lam Sơn thực lục, ông cũng ghi lại nhận định của các bầy tôi khi bàn luận với Lê Lợi về cuộc chiến đã qua, cũng nhấn mạnh về sự thành công mau chóng. Thành công mau chóng, thắng lợi thần tốc không phải chỉ do mưu kế, do sức người thuần tuý mà còn do việc “chứa đức tích nhân” của cả dòng họ Lê Lợi. Không gian đất nước trong đó Lê Lợi hoạt động được miêu tả như là không gian nơi toả phát năng lượng Ðức tích tụ của Lê Lợi. Ðiều này có thể cảm nhận được nếu chú ý kết cấu của bài Cáo. Sau khi miêu tả không gian đất nước chịu những ảnh hưởng tiêu cực của kẻ thù, sau khi liệt kê những khó khăn, gian truân của buổi đầu khởi nghĩa, Nguyễn Trãi chuyển ý : “Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo” và từ đây, tình thế thay đổi mau chóng. Có cảm tưởng kẻ thù càng đánh càng thua và thua rất nhanh, tưởng như có bàn tay vô hình giật đổ hệ thống đồn luỹ của chúng:

 

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,

Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

 

Sự thần tốc được diễn đạt bằng cách liệt kê hàng loạt thất bại của quân Minh ở những thời điểm sát nhau. Cảm hứng vũ trụ thấm đượm bài Cáo. Chiến tranh, thất bại và thành công, đó là việc người mà cũng là việc trời, việc của vũ trụ. Các chiến dịch của Lê Lợi tiến hành được hình dung qua những hiện tượng của Trời Ðất:

 

Trận Bồ Ðằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

 

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông cũng cạn.

Ðánh một trận, sạch không kình ngạc,

Ðánh hai trận, tan tác chim muông.

Nổi gió to quét sạch lá khô,

Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.

 

Những tổn thất, thất bại của kẻ thù cũng phải đo bằng tầm kích vũ trụ, bởi đó là sự trừng phạt của trời, thần và người cộng lại:

 

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tốt Ðộng thấy chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

 

Ghê gớm thay, sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay, ánh nhật nguyệt phải mờ.

 

Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc,

Thành Ðan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.Chúng ta đều biết, bài Cáo được Nguyễn Trãi viết thay mặt Lê Lợi sau khi giặc Minh thất bại nhục nhã phải rút về nước. Phải chăng đây là một thông điệp cho nhà Minh? Khả năng này hầu như không thể có vì giặc xâm lược đã rút về, nhiệm vụ lịch sử lớn nhất là giành lại độc lập dân tộc với giá hy sinh thấp nhất đã hoàn thành. Với chủ trương hoà hiếu, để nhân dân hai nước nghỉ sức, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương khoan hồng, cấp lương thực và phương tiện cho chúng về nước. Do vậy, khơi gợi lại thất bại của chúng không cần thiết nữa. Mặt khác, việc xưng đế trong bài Cáo đã nhằm vào nhân dân Ðại Việt, bởi lẽ tất cả các triều đại phong kiến Việt Nam đều theo đuổi đối sách “trong xưng đế ngoài xưng vương”.

 

Là một thông điệp hướng tới nhân dân Ðại Việt, Bình Ngô đại cáo muốn nói những gì với người nước Việt? Có thể có nhiều ý tứ khác nhau. Tuy vậy, theo chúng tôi, một trong những thông điệp quan trọng nhất là khẳng định đế vị của Lê Lợi cũng như tính chất “hợp hiến hợp pháp” của triều đại mới do Lê Lợi thành lập. Ông không thuộc tôn thất nhà Trần nên không thể nói tới vấn đề kế vị. Mặt khác, ông xuất thân từ “núi Lam Sơn hoang dã”, làm sao có thể khiến cho giới trí thức nho sĩ của vùng đồng bằng “tâm phục, khẩu phục”? Là một trí thức ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, rất có thể Nguyễn Trãi ý thức rõ vấn đề này, một vấn đề vừa có tính lý thuyết, vừa có giá trị thực tiễn to lớn. Bằng chứng là ông đã biện chính cho sự “hợp hiến hợp pháp” của nhà Lê trong một loạt công trình khác nhau. Cố nhiên, khi viết bài Cáo, cảm hứng tự hào về dân tộc, về đất nước, lòng căm thù giặc sục sôi là những cảm xúc có thực. Song biện luận cho ngai vàng của Lê Lợi vẫn là một nhiệm vụ quan trọng của bài Cáo. Và sự biện luận này được thực hiện khá chặt chẽ. Mở đầu bài Cáo, Nguyễn Trãi với sự thật lịch sử, khẳng định một vùng không gian ảnh hưởng Ðức của riêng các triều đại Việt Nam, nằm ngoài vùng không gian ảnh hưởng Ðức của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Việc khẳng định này sẽ được tiếp tục một cách hệ thống hơn, chặt chẽ hơn trong Dư địa chí. Sau đó, bài Cáo, cũng với những sự thật lịch sử hùng hồn, quy tụ về Ðức của Lê Lợi, người có đủ điều kiện toả phát từ trường ảnh hưởng trong vùng không gian vũ trụ hoá mà các đời trước đã tạo dựng, tức là đủ điều kiện kế tục đế quyền của “Triệu, Ðinh, Lý, Trần”. Người xưa nhìn nhận vua là người có năng lượng Ðức đủ mạnh để đứng ở vị trí liên thông Trời và Người (vua là kẻ duy nhất có quyền tế trời – tế giao). Nhưng, từ đời Chu đã biết, Trời không biết đến họ hàng và chỉ giúp kẻ có Ðức. Một người bình thường nếu có Ðức thì có thể trở thành Thiên tử (con Trời), còn con Trời không có Ðức sẽ bị biến thành dân thường. Ðức lớn nhất, đó là hiếu sinh, biểu hiện cụ thể nhất qua nhân nghĩa. “Từ xa xưa, người ta đã coi chức năng cơ bản của Trời là sự sinh thành muôn vật nên tất nhiên, một trong những đặc điểm quan trọng của hoạt động nhà vua vốn được cắt nghĩa như là sự tiếp tục một cách trực tiếp công việc của Trời, được định nghĩa là lòng hiếu sinh. Tất nhiên ở đây không phải là tình yêu theo kiểu Platông mà là trách nhiệm trên phương diện quốc gia đối với sự sống của muôn vật đứng dưới quyền lãnh đạo của Thiên tử. Ðiều này trong các văn bản quan phương xác định ngắn gọn bằng công thức hiếu sinh, một đặc điểm quan trọng nhất của Ðức nhà vua trong phạm vi thế tục [...]. Hiếu sinh, hiển nhiên là một trong những định nghĩa thường được sử dụng nhiều nhất về Ðức của vua, cái Ðức không hướng lên trên, về các thế lực thần thiêng mà hướng xuống dưới, trải rộng khắp Thiên hạ” [1] . Hiếu sinh áp dụng cho muôn vật, nhân nghĩa là hiếu sinh áp dụng cho con người. Lê Lợi tích luỹ đủ năng lượng Ðức qua lòng nhân nghĩa, qua đức hiếu sinh được trời, người mến mộ và Ðức đó đã được kiểm chứng thực tế qua cuộc kháng chiến vừa xảy ra. Vì vậy, lên ngôi Thiên tử, thế thiên hành hoá, đại thiên hành hoá là một việc hết sức tự nhiên. Ông David G. Marr đã nhận định khá tinh tế: “Những cơ sở tư tưởng của việc đoàn kết đời đời có những điều chưa rõ. Nho giáo đã có một sự hỗ trợ nho nhỏ, được quan tâm tới việc nâng cao khả năng của vua và các quân sư để quản lý các dòng họ ngỗ nghịch đang cầm quyền và giảm bớt đi các cơ hội làm loạn của những người nông dân không được học hành” [2] . Nguyễn Trãi vận dụng văn hoá cổ để củng cố quyền lợi Lê Lợi và sự thống nhất của đất nước vào đầu đời Lê.

 

Triết học lịch sử của Nguyễn Trãi thật minh bạch: Nhân nghĩa là đạo người mà cũng là đạo trời. Có nhân nghĩa sẽ được người, trời ủng hộ, sẽ thành công. Bất nhân bất nghĩa sẽ thất bại. Phải chăng còn có một thông điệp ngầm ẩn nào đó gửi gắm cho chính Lê Lợi hay những bậc trị vì của các triều đại sau đó hãy nhớ đến bài học lịch sử quan trọng này?

 

Nguyễn Trãi cũng như các nhà nho chân chính khác, tuy biện chính cho đế quyền song luôn đứng về phía nhân dân để nêu lý tưởng chính trị của mình. Ðó là lý do vì sao họ không quan tâm tổng kết các “thuật trị quốc” là những thủ đoạn cai trị thuần tuý chỉ mang lại lợi ích cho giai cấp phong kiến thống trị. Họ quan tâm mô tả thứ không gian vũ trụ, nơi thi thố đạo nhân nghĩa của Trời – Người mà không mô tả một không gian thế tục nơi thi thố những thứ mà họ gọi là quyền mưu.

 

 

Tác giả: Tiến sĩ Ngữ văn, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

 

 

 

[1]Xem A. X. Máctưnốp. “Phạm trù Ðức, sự tổng hợp giữa “trật tự” và “sự sống””, trong sách Từ sức mạnh ma thuật đến chuẩn tắc đạo đức: Phạm trù Ðức trong văn hoá Trung Hoa, NXB Văn học Ðông phương Maxcơva, 1998, tr. 55 (Nga văn).

[2]Xem: “Khái niệm nghệ thuật trị quốc ở Việt Nam”, sách Nghiên cứu Huế của Trung tâm nghiên cứu Huế xuất bản, tập một, 1999, tr. 57.

Nguồn: Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2003, 387 trang, tr. 96 – 109

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác
Mình cảm thấy chưa đồng tình. Giả sử haanh nói vấn đề nào khác, mình còn ủng hộ. Chứ vấn đề này khó nói lắm. Đem thuyết nhà phật ra đây là không phù hợp. Đời sống được bao lâu, chẳng phải haanh vẫn đang bương chải kiếm tiền đó sao?!?

Những gì nêu trong topic này khiến Tú đây có phần bức xúc. Mong haanh hiểu

Tớ đồng ý với cậu!

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác
Bảo vệ Thuần Phong Mỹ Tục

Thứ sáu, 10/04/2009 - 10:49:am

Bảo vệ thuần phong mỹ tục

(Tóm tắt bài giảng của Sư Phụ Thích Chân Quang tại chùa Kim Huê, thị xã Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp ngày 29/03/09).

Đất nuớc ta đang trong thời kỳ mở cửa, hòa nhập với thế giới trong xu thế tòan cầu hóa. Ngòai những yếu tố tích cực mà sự mở cửa này đem lại, sự xâm nhập ồ ạt của lối sống phương tây có nguy cơ làm cho chúng ta có thể đánh mất đi bản sắc văn hóa tốt đẹp vốn có của mình. Chúng ta có thể thành công về mặt kinh tế nhưng nếu cả xã hội chúng ta sống không có đạo đức, tội ác lan tràn thì tương lai của dân tộc sẽ ra sao? Ví dụ về vấn đề ăn mặc, dân tộc ta có truyền thống người phụ nữ phải ăn mặc kín đáo, quan hệ nam nữ trong sáng được xem là đạo đức, nhưng ngày nay do bắt chước nước ngòai, nhiều phụ nữ đã ăn mặc hở hang, khoe da thịt và có tính gợi dục, nhiều biển quảng cáo phô bày cơ thể người nữ quá đáng, những cảnh trai gái ôm nhau, đã đánh vào tâm hồn của lớp trẻ khơi gợi bản năng tình dục, làm cho nhân cách của con người bị xuống cấp phát sinh nhiều hệ lụy và tội ác ngày càng lan tràn. Như vậy ăn mặc hở hang gợi dục cũng là một tội ác, việc chống lại ăn mặc hở hang cũng là một nội dung của bảo vệ Thuần Phong Mỹ Tục. .......

Thiện Tâm

Đúng là "Phật Pháp vô biên" nhưng chúng ta cần kiếm tiền để ít nhất phải duy trì được cuộc sống, thứ 2 mới nói đến kế hoạch để thực hiện giấc mơ, thứ 3 là ngoảnh đầu nhìn lại và thứ 4 mới nên nghĩ đến "kiếp tu hành" ( nếu muốn) :cheers:

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

Triết lí về giao tiếp trong tục ngữ Việt Nam

 

(Bài đã đăng trên Tạp chí Kiến thức Ngày nay số 574, trang 40 - 42 -47)

Lời nói chẳng mất tiền mua,

 

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Con người sáng tạo ra ngôn ngữ và nó trở thành phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người. Trong quá trình vận dụng, người ta luôn có ý thức chú ý đến việc tổ chức lời nói sao cho đạt hiệu quả cao trong quá trình ngôn giao. Ngay từ thuở xa xưa, khi chưa có các ngành khoa học về ngôn ngữ, ông cha ta đã đúc kết những kinh nghiệm vận dụng lời ăn tiếng nói của mình trong tục ngữ và cho đến nay, những kinh nghiệm này vẫn còn nguyên giá trị. Cho dù chỉ mới là kinh nghiệm, nhưng tính triết lí ngôn giao dân gian đó vẫn giàu sức thuyết phục và sống mãi với thời gian. Đấy là vì nó thể hiện cái logic của mình một cách hình tượng, hàm súc, đậm hơi thở của cuộc sống cùng sự trải nghiệm từ chính thực tế nói năng. Đằng sau mỗi câu tục ngữ, đằng sau những hình ảnh, những kinh nghiệm khái quát từ chính cuộc sống ấy là bản sắc văn hoá, là phong cách sống, là lối nói, cách nghĩ của người Việt.

 

Tác dụng của lời ăn tiếng nói

Trước hết, nhân dân ta nhận thức rõ tầm quan trọng và giá trị của lời ăn tiếng nói. Ngôn ngữ là công cụ dùng để giao tiếp. Nhưng khi sử dụng ngôn ngữ, người ta không chỉ thuần tuý chuyển tải thông tin khách quan mà còn nhằm tác động vào đối tượng, chinh phục đối tượng hoặc thể hiện sự đánh giá tình cảm của mình... Ngôn ngữ có sức mạnh thật diệu kì. Nó có thể làm cho con người gần gũi, gắn bó ("Lời nói nên vợ nên chồng") hay mãi cách xa. Nó có thể làm cho chúng ta yêu thương hay căm giận. Nó có thể làm cho đối tượng tham gia giao tiếp phơi phới yêu đời hoặc dằn vặt, đau đớn ("Lời nói đau hơn roi vọt") hay tiếc nuối, day dứt khôn nguôi ("Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ đời"). Nó có thể gây nên chiến tranh ("Khẩu thiệt đại can qua") mà cũng có khả năng làm "sóng yên biển lặng"...Vì thế, khi nói về giá trị của lời ăn tiếng nói, nhân dân ta đã dùng những hình ảnh biểu trưng cho sự quý giá để so sánh như: "Lời nói, gói vàng"; "Lời nói quan tiền tấm lụa"... thậm chí rất cần thiết cho sự sống: "Một lời nói, một đọi máu". Giá trị càng cao thì người sở hữu càng phải trân trọng, giữ gìn khi vận dụng bởi:"Vàng sa xuống giếng khôn tìm, người sa lời nói như chim sổ lồng". Không biết kiểm soát ngôn từ, nói không đúng chỗ, lựa chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ không hợp lí, không phù hợp với đối tượng, không diễn đạt chính xác tâm tư tình cảm của mình thì có thể gây nên những hậu quả khôn luờng. Bởi vì dù "Lời nói gió bay" nhưng có thể "há miệng mắc quai" do "Một lời đã trót nói ra, dù rằng bốn ngựa khó mà đuổi theo"; "Sẩy chân đã có ngọn sào, sẩy miệng biết nói làm sao bây giờ".

 

Bài học vận dụng ngôn từ

Ngôn ngữ có sức mạnh rất to lớn nhưng không vì thế mà bộ phận tục ngữ phản ánh những kinh nghiệm nói năng chỉ coi trọng đến việc "điều câu khiển chữ", đến hình thức của lời nói. Người ta thừa nhận cái logic "Nói ngọt lọt đến xương" nhưng cũng khẳng định một thực tế "Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo"; "Gươm hai lưỡi miệng trăm hình", "Lưỡi mềm độc quá con ong"...Do đó, tục ngữ còn phản ánh yêu cầu cao về tính chân thật của lời nói; lời nói phải đi đôi với việc làm: "Nói chín thì phải làm mười, nói mười làm chín kẻ cười người chê", "Nói lời thì giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay". Ở đây dường như có sự mâu thuẫn. Một mặt, tục ngữ đề cao sức mạnh của lời nói hay, "nói ngọt"; mặt khác lại tỏ ra hoài nghi với những câu đường mật nên khẳng định giá trị của lời nói ngay, nói thật, nói phải: "Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành"; "Một câu nói ngay bằng ăn chay cả tháng"; "Nói phải củ cải cũng nghe"; "Nói gần nói xa chẳng qua nói thật"... Và, tục ngữ lại chỉ ra một thực tế không thể chối cãi đối với người thụ ngôn là : "Nói thật, mất lòng"; " Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng"; "Nói ngay hay trái tai". Thoạt nhìn tưởng như mâu thuẫn và dễ nghĩ rằng tính triết lí ngôn giao trong tục ngữ thiếu nhất quán. Nhưng thật ra, nó lại rất đúng, rất linh động, rất đời thường, rất thực chứ không xám xịt, bó hẹp trong một vài quy luật khô cứng. Sự tồn tại của chúng cho đến nay là sự chứng nhận đầy sức thuyết phục kinh nghiệm giao tiếp của nhân dân ta. Rõ ràng việc vận dụng ngôn ngữ không hề đơn giản và bài học ngôn từ có lẽ sẽ không hề xưa cũ đối với tất cả mọi người và ở mọi thời.

 

 

 

Lời nói và phong cách

Ngôn ngữ là công cụ chung dùng để giao tiếp trong một cộng đồng nhưng mỗi người, khi sử dụng lại có những thể hiện riêng, có thói quen ngôn ngữ riêng. Ngay cả mỗi cá nhân, cùng một nội dung thông báo nhưng nếu hoàn cảnh, đối tượng, mục đích giao tiếp...thay đổi thì việc vận dụng ngôn ngữ cũng có sự thể hiện khác biệt. Tất cả những điều này tạo nên sự sinh động, đa dạng, phong phú và biến đổi không ngừng của ngôn ngữ giao tế. Sự hiện thực hoá ý tưởng bằng những phát ngôn cụ thể trong quá trình ngôn giao đều mang đậm dấu ấn phong cách của mỗi người. Có thể nói qua lời ăn tiếng nói, người ta phần nào thể hiện tâm hồn, tính cách và tình cảm của mình... Nếu Buffon (1707- 1788)- một nhà văn, nhà lí luận Pháp- có khẳng định:"Phong cách là chính con người" (Le style, c’est l’homme) thì từ xa xưa, điều này đã được tục ngữ Việt Nam đề cập. Khác với cách nói mang tính hàn lâm, tục ngữ thể hiện cái logic của mình bằng lối nói so sánh hình tượng; giàu sắc thái biểu cảm mà không kém phần triết lí:"Vàng thì thử lửa thử than, chim khôn thử tiếng người ngoan thử lời"; "Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe"; "Đất tốt trồng cây rườm rà, những người thanh lịch nói ra dịu dàng"; "Đất rắn trồng cây ngẳng nghiu, những người thô tục nói điều phàm phu". Ai cũng có lúc "nhả ngọc phun châu" và cũng có khi không thể kiềm lòng mà tuôn ra những lời khó nghe, khiếm nhã. Nhưng cái logic trên quả thật đúng và đáng suy ngẫm. Trong quá trình ngôn giao, ngoài sự chi phối do các nhân tố khách quan còn có sự chi phối từ chính bản thân người nói như: thói quen, nghề nghiệp, tính cách, tình cảm, giới tính, địa bàn cư trú,... Tất cả những điều này sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ khi giao tiếp. Lời nói là kết quả của sự tổng hoà từ rất nhiều các nhân tố khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan. Và, cũng chính từ lời nói, qua thực tế giao tiếp hàng ngày, ta thấy được chủ thể phát ngôn là người như thế nào: hiền hoặc dữ; tốt hay xấu; trầm mặc hay sôi nổi; nhân ái hay thâm độc; khôn ngoan hoặc ngu dốt; dịu dàng hay chanh chua, cục súc...

 

Lời nói và vị thế xã hội

Tục ngữ còn đề cập đến vị thế của người giao tiếp. Mỗi người, khi tham gia giao tiếp, bao giờ cũng xuất hiện với một tư cách, một cương vị nhất định mà mối quan hệ gia đình và xã hội đã quy định. Có mối quan hệ ngang vai, có mối quan hệ không bằng vai. Trong quan hệ giao tiếp không bằng vai, rõ ràng lời nói của vai trên có "sức nặng" hơn vai dưới. Trên nói, dưới nghe. Gia đình và xã hội khó mà ổn định và phát triển nếu trật tự này bị xoá nhoà hay không được tôn trọng. Nhưng điều đó cũng không cho phép vai trên muốn nói gì thì nói theo kiểu "Chân lí nằm trong tay kẻ mạnh". Khi đề cập đến vị thế của người giao tiếp, sự thể hiện của tục ngữ có phần nào đó vừa mỉa mai, chỉ trích vừa bi quan, chua chát: "Tay mang túi bạc kè kè, nói quấy nói quá người nghe ầm ầm"; "Trong lưng chẳng có một đồng, lời nói như rồng chúng chẳng thèm nghe". "Miệng nhà quan có gang có thép"... Điều này cũng dễ hiểu vì cái logic đó đa phần là cái logic của những người nông dân thấp cổ bé miệng ngày xưa. Thân phận họ như "con ong, cái kiến" và lời nói bị xem nhẹ như vỏ trấu, rơm khô.

 

Một số yêu cầu trong ngôn ngữ giao tiếp

Từ việc chỉ ra giá trị của ngôn ngữ, mối quan hệ giữa ngôn ngữ với lời nói cá nhân, tục ngữ đã khái quát nên một số yêu cầu thiết thực.

Đầu tiên là sự ngắn gọn khi giao tiếp. Tục ngữ có câu: "Ăn bớt bát, nói bớt lời". Một trong những nguyên nhân về việc sử dụng lời nói không đạt hiệu quả cao là do nói nhiều mà lượng thông tin không được bao nhiêu. Và hơn thế nữa, hậu quả của sự nói nhiều là bộc lộ những sai sót có thể có: "Ăn lắm thì hết miếng ngon, nói lắm thì hết lời khôn hoá rồ"; "Năng ăn hay đói, năng nói hay lầm"; "Hương năng thắp năng khói, người năng nói năng lỗi"...Cái gì quá mức độ cũng không hay, do đó cần phải biết điều tiết: "Rượu nhạt uống lắm cũng say, người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm". Cái logic ở đây là đòi hỏi cao về lượng thông tin chứ không phải là độ dài lời nói. Chính xác hơn, tục ngữ đòi hỏi có một mối quan hệ phù hợp giữa lượng và chất. Một văn bản dài nhưng nếu thông tin phong phú, không thừa từ, thừa ý vẫn là một văn bản đạt được tính ngắn gọn. Một phát ngôn vẫn bị coi là dông dài nếu diễn đạt theo kiểu "dây cà ra dây muống". Người xưa quan niệm, nói nhiều chưa chắc là người có hiểu biết mà đôi khi là do "thùng rỗng kêu to". Tục ngữ Nga có câu: "Nói ít đi thì sẽ thông minh hơn". Tục ngữ Việt không thiếu những câu thể hiện điều này:"Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo"; "Người khôn nói ít làm nhiều, không như người dại lắm điều rườm tai"; "Khôn ngoan chẳng lọ nói nhiều, người khôn mới nói nửa điều đã khôn"...

 

Để đạt được yêu cầu trên, khi nói năng cần phải suy nghĩ. Rõ ràng, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thiếu sót, non kém trong vận dụng ngôn ngữ là do không cân nhắc, lựa chọn ngôn từ để vận dụng phù hợp trong từng cảnh huống giao tiếp cụ thể. Điều này đã được nhân dân ta khái quát trong câu:" Ăn có nhai, nói có nghĩ". Một sự so sánh rất bình dân, mộc mạc nhưng cũng rất thâm thuý. Đấy có thể coi như là quy luật tất yếu. Con người không thể sống nếu không ăn và cũng khó thể tồn tại và phát triển nếu thiếu sự giao tiếp. Trong quá trình thực hiện các hành động này, nếu nhai không tốt, nghĩ chưa sâu thì đều có thể dẫn đến kết quả xấu. Để nhấn mạnh điều này, tục ngữ Việt đã nêu lên những hậu quả khôn lường khi nói năng thiếu nghĩ suy bằng những so sánh giàu hình tượng:"Sẩy chân còn hơn sẩy miệng"; "Vạ ở miệng mà ra, bệnh qua miệng mà vào"; "Vạ tay không hay bằng vạ mồm"...Triết lí này dẫn đến một yêu cầu thứ ba khi vận dụng ngôn ngữ. Đó là cần chú ý lựa lời khi nói năng.

 

Các phương tiện ngôn ngữ ở tất cả các cấp độ (ngữ âm, từ vựng, cú pháp) luôn tồn tại những hình thức biểu đạt cùng nghĩa. Mỗi hình thức biểu đạt cùng nghĩa như thế phù hợp với từng điều kiện giao tiếp cụ thể. Do đó, việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ là một thao tác tự nhiên, tất yếu khách quan. Có lựa chọn tốt thì mới có thể tạo ra một lời nói tốt. Phong cách học hiện đại đã chỉ ra cụ thể những thao tác lựa chọn, quy luật lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ nhằm tạo ra các phát ngôn đạt hiệu quả giao tiếp cao. Tuy nhiên, vốn ngôn ngữ dồi dào (tiền đề khách quan cho sự lựa chọn) cùng với việc nắm vững quy luật, thao tác lựa chọn vẫn chưa đủ. Giữa lí thuyết trong sách vở với thực tế sống động trong việc vận dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày vẫn có một khoảng cách và bị chi phối rất lớn bởi cá nhân người nói. Khi tranh luận, phê bình, chỉ trích, do không nén nổi bức xúc, đôi khi chúng ta dùng những từ khiếm nhã, nặng nề cho hả giận, đã tức. Điều này có lẽ ai cũng đã từng trải qua và chắc chắn sẽ còn gặp phải. Giá trị đích thực của hoạt động ngôn giao không chỉ là thông tin mà còn là để con người gần nhau, tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau. Lấy tình cảm làm nguyên tắc lựa lời là văn hoá ứng xử, giao tiếp của người Việt Nam:

"Chim khôn chưa bắt đã bay,

người khôn chưa nói dang tay đỡ lời";

" Chim khôn ai nỡ bắn, người khôn ai nỡ nói nặng";

"Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi, người khôn ai nỡ nặng lời đến ai";

"Người khôn ai nỡ roi đòn, một lời nói nhẹ hãy còn đắng cay" ;

"Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau".

Lời khuyên này có lẽ không bao giờ cũ, không bao giờ thừa với tất cả mọi người.

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

66 CÂU LÀM CHẤN ĐỘNG THIỀN NGỮ THẾ GIỚI

1. Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.

2. Nếu anh không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho anh. Vì chính tâm anh không buông xuống nỗi.

3. Anh hãy luôn cảm ơn những ai đem đến nghịch cảnh cho mình.

 

65. Thế giới vốn không thuộc về anh, vì thế anh không cần vứt bỏ, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp. Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta.

66. Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ.

 

  • Vote tăng 1

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

Gần đây, chủ đề về việc có nên lập hay không “khu nhạy cảm”  đang được bàn luận nhiều trên các diễn đàn mạng. Lẽ dĩ nhiên, cho dù đứng trên quan điểm tán thành hay không thì các dịch vụ nhạy cảm vẫn đang tồn tại 

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

Đúng là "Phật Pháp vô biên" nhưng chúng ta cần kiếm tiền để ít nhất phải duy trì được cuộc sống, thứ 2 mới nói đến kế hoạch để thực hiện giấc mơ, thứ 3 là ngoảnh đầu nhìn lại và thứ 4 mới nên nghĩ đến "kiếp tu hành" ( nếu muốn) cheers.gif

 

Đọc "Người Trung Quốc Xấu Xí"

Cách đây hai tuần, khi vừa đọc xong, tôi tìm cách gặp dịch giả Nguyễn Hồi Thủ, mong được phép chất vấn ông. Bởi tôi đinh ninh ông dùng tựa sách này để nói về người mình, như mấy ông Mỹ, Nhật và cả Việt nữa trong quá khứ: Người Mỹ ưu tư, người Mỹ trầm lặng, người Nhật xấu xí, người Việt cao quí. Chính Nguyễn Hồi Thủ nói đến quyển này trong "lời người dịch", quá nhiều bóng dáng (người) mình trong đó. Tôi nghi rằng NHT sợ đi chợ khu 13 bị "anh em" chận đường... hỏi tội, nếu ông dám giữ tựa đề "Người Việt xấu xí".

http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-Su...ng_Quoc_Xau

Con người ai cũng có lúc thế này thế kia  , ở đâu cũng có người này người kia , thế nên không thể chỉ nhìn vào 1 2 cá thế mà kết luận chung là không nên

Chia sẻ bài đăng này


Liên kết tới bài đăng
Chia sẻ trên các trang web khác

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để nhận xét

Bạn cần phải là một thành viên để lại một bình luận

Tạo tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Điều đó dễ mà.

Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn có sẵn sàng để tạo một tài khoản ? Đăng nhập tại đây.

Đăng nhập ngay
Đăng nhập để thực hiện theo  

×